BỘ TƯỢNG TAM THẾ PHẬT CHÙA CÔN SƠN – NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC

Chùa Côn Sơn tên chữ là “Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự”, tục gọi là chùa Hun, khởi dựng vào thế kỷ XIII, là một trong ba trung tâm nổi tiếng của dòng Phật giáo Trúc Lâm Việt Nam.

Thời Trần, bình đồ kiến trúc của chùa là “nội công ngoại quốc”. Thời Lê, chùa mở rộng quy mô 83 gian, tòa Cửu Phẩm liên hoa có 385 pho tượng, các công trình mái lợp ngói thanh lưu ly, hoàng lưu ly… trông xa long lanh như ngọc biếc. Trải qua thăng trầm của lịch sử, ngày nay chùa Côn Sơn vẫn lưu dấu ấn kiến trúc của nhiều thời đại cùng nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú: hệ thống văn bia từ thế kỷ XIV – XIX; hệ thống tượng thờ niên đại từ thế kỷ XVII – XIX; các bộ sách kinh Phật, bộ cúng đàn Mông Sơn thí thực, bùa chú của Đệ tam tổ Huyền Quang, hệ thống phả hệ của dòng họ Nguyễn Trãi… Trong đó, bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn, là một trong những cổ vật quý hiếm, chứa đựng những giá trị đặc sắc.

Bộ tượng Tam Thế bao gồm 03 vị Phật: Phật Quá Khứ, Phật Hiện Tại và Phật Vị Lai, tên gọi đầy đủ là: “Tam Thế thường trụ diệu Pháp thân” (Pháp thân: là cái thân chân thật, cái Đạo thể, Pháp tính; Diệu: đẹp, sáng, sạch, tinh tế, nhiệm màu, thoát khỏi phiền não…; Thường trụ: luôn luôn tồn tại, lúc nào cũng thế, không lệ thuộc vào bất kể điều kiện nào, không sanh, không diệt, không thay đổi, không gián đoạn…) có nghĩa là: thời quá khứ, hiện tại, vị lai tồn tại vĩnh hằng không bị lệ thuộc vào hình, danh, sắc, tướng của thế giới hữu hình, không lệ thuộc vào không gian và thời gian.

Một ý nghĩa khác gắn với tên gọi của các vị Phật này là: Tam Thế Tam Thiên Phật”, bao gồm “Quá Khứ Thế” (cũng gọi Trang Nghiêm Kiếp) có 1000 vị Phật khác nhau đứng chủ; “Hiện Tại Thế” (gọi: Hiền Kiếp) gồm 1000 vị Phật khác; “Vị Lai Thế” (Tinh Tú Kiếp) có 1000 vị. Như thế tượng Tam Thế tuy chỉ có ba pho, nhưng đã tượng trưng cho 3000 vị Phật, ở ba đại kiếp (mỗi đại kiếp tương ứng 1.344.000.000 năm) mà không nhằm chỉ đích danh một vị Phật nào.

Theo bài trí truyền thống, trên Thượng điện Tam Thế Phật được đặt ở hàng trên cùng, bộ tượng Di Đà tam tôn hàng thứ 2. Ở chùa Côn Sơn, do kích thước pho tượng A Di Đà quá lớn nếu đặt ở hàng thứ 2 sẽ che khuất tượng Phật Hiện Tại nên 2 pho tượng được đổi chỗ cho nhau. Hiện nay, vị trí tượng Tam Thế Phật sắp xếp như sau: Phật Quá Khứ và Phật Vị Lai đặt 2 bên tượng Phật A Di Đà ở hàng trên cùng, tượng Phật Hiện Tại đặt chính giữa hàng thứ 2.

Bộ Tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn được tạo tác bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng, trong tư thế ngồi thiền định trên tòa sen theo kiểu kiết già hàng ma, niên đại thời Lê Trung Hưng. Tượng Phật Quá Khứ và Phật Vị Lai có kích thước, hình dáng tương tự nhau. Đỉnh cao nhất, trên đầu tượng là biểu tướng Sahasrâra, được kết lại thành một “tinh cầu” màu vàng ròng “sáng rực” như biểu tượng cho trí tuệ viên mãn. Đầu tượng có sọ trên nở, hàm thon hơn, mặt trái xoan. Tóc tượng xoắn ốc, khuôn mặt mang nét chân dung chuẩn mực, gần gũi với khuôn mặt của người Ấn: trán tượng vuông vức, nguyệt mi cong, mắt khép hờ, sống mũi cao, môi cân phân đầy đặn thoáng nở nụ cười. Tai lớn chảy dài xuống gần vai. Cổ cao ba ngấn. Thân rất dày, ngực nở căng, bụng thon vừa phải. Tượng mặc áo cà sa hở vai phải. Cổ tay và bắp tay đeo vòng. Chuỗi vòng đeo cổ “Anh lạc” được thể hiện bằng hình thức chạm nổi trên ngực tượng, vẫn còn theo phong cách thời Mạc, như hoa văn vân xoắn ở trung tâm kết hình chiếc khánh, điểm xuyết hai bên là vài hạt tròn nổi…

Tay tượng Phật Quá Khứ kết ấn “tam muội” cũng gọi là ấn “giới định” hoặc “pháp giới định”. Tượng Phật Vị Lai tay phải kết ấn “Vô úy”, tay trái đặt trên đầu gối, kết ấn “xúc địa” cũng gọi là ấn “đất chứng giám”.

Tòa sen tượng ngồi có 6 lớp cánh, các cánh sen mang phong cách thời Mạc. Trung tâm của mỗi cánh sen chính thường có một hoa cách điệu được kết bởi các hạt to nhỏ khác nhau trong một trật tự quy định, nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật truyền thống tạm gọi là “hoa mặt nhẫn”.

Tượng Phật Hiện Tại cũng có hình dáng tương tự như hai pho tượng Phật Quá Khứ và Vị Lai, tuy nhiên kích thước nhỏ hơn. Đầu tượng (nhìn nghiêng) không gần tròn êm ả như hai pho kia. Mặt tượng có phần bẹt, mũi hơi tẹt, trên mặt đã có nếp hằn nhưng không làm nổi cao khối gò má và cằm như tượng có niên đại vào khoảng giữa thế kỷ XVII. Ngực tượng không nổi khối căng phồng một cách gợi cảm như hai pho tượng kia, bụng tượng lại ít thon khiến thế ngồi của tượng kém uyển chuyển, mềm mại, nhịp nhàng.

Áo của tượng nhiều nếp hơn, nhất là ở dưới nách, vai và cánh tay bên trái đã không còn tạo khối lõm (giữa thân và cánh tay), đường lượn của “la bào” như theo một hình thức khác, gần gũi với phong cách của tượng thời sau.

Tòa sen gồm 6 lớp cánh, các cánh sen mập, dày hơn cánh sen của hai pho tượng Quá Khứ và Vị Lai. Các lớp cánh chính phía trên, mặt trước, trên mỗi cánh sen có hai đường sòi gấm chạy lên rồi cuộn lại ở giữa, ôm lấy nửa bông hoa nở mãn khai. Lớp cánh chính mặt sau chỉ tạo đường viền bao quanh cánh.

Bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn là hiện vật gốc độc bản, được lưu giữ từ thời Lê Trung Hưng đến nay, gắn liền với quá trình trùng tu, xây dựng chùa. Bộ tượng có nhiều nét chung như trình bày ở trên và có những khác biệt chi tiết. Những khác biệt này do các tốp thợ khác nhau thực hiện nhưng đều phản ánh đầy đủ cấu trúc của hệ tượng Tam Thế vốn là bộ tượng quan trọng hàng đầu trong các điện thờ Phật ở Bắc Việt Nam. Bộ tượng Tam Thế Phật tại chùa Côn Sơn hiện nay, với các đặc điểm tạo hình, trang trí, sơn son thếp vàng nhiều lớp, mang những hoa văn trang trí tiêu biểu trên tượng, không những kế thừa được những nét tinh túy của nghệ thuật thời trước mà còn tôn vinh được vẻ đẹp lý tưởng của Phật pháp.

Bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn là hiện vật có hình thức độc đáo. Điều đặc biệt ở bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn đó là chiếc áo cà sa kiểu quấn mảnh vải từ vai trái vắt chéo xuống sườn phải để hở hẳn bờ vai, cánh tay và nửa ngực phải. Hiện tượng trật vai phải của những pho tượng này như để biểu thị sự tôn kính bề trên mà ở đây là Phật kính pháp. Trong kho tàng nghệ thuật cổ Việt Nam, tượng Tam thế chùa nào cũng có, hầu hết tượng Phật khoác áo cà sa che kín người hai nửa cân nhau, gọi là Tăng già lê, gồm áo mặc trong, áo mặc giữa và áo mặc ngoài; Nhưng kiểu khoác áo cà sa như thế này thì rất hiếm, trên cả nước chỉ có ở bộ Tam thế Phật chùa Côn Sơn và bộ Tam thế Phật chùa Hiệp Thuận (Phúc Thọ, Hà Nội).

Bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn có những giá trị đặc biệt về lịch sử tạo dáng rất hiếm và quý, là tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu cho một phong cách, một thời kỳ lịch sử.Bộ tượng Tam thế chùa Côn Sơn tiếp tục kế thừa phong cách tạo hình thời Mạc và tiêu biểu cho phong cách tạo hình tượng thời Lê Trung hưng, với phong cách tạo dáng rất hiếm và quý. Tượng được tạc với biểu tướng Sahasrâra (tướng trên đỉnh đầu) là khối cầu đứng độc lập. Kiểu thức tượng Sahasrâra dưới dạng một khối gần như tròn thường chỉ có ở tượng Phật thuộc “phong cách Mạc” (nửa cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII), và, hiện nay còn lại rất ít (dưới 10 pho, như ở chùa Côn Sơn – Hải Dương, chùa Thái Lai – Mê Linh, Hà Nội, phần nào ở chùa Bà Tề – Phúc Thọ, Hà Nội…). Tuy vậy, các tượng này vẫn đủ tư cách đại diện cho một phong cách riêng biệt, như chưa chịu sự chi phối của hai dòng Phật pháp Tào Động và Lâm Tế, mà còn giữ được phong cách tạo tượng Phật từ thời trước đó (có nhiều sự tương đồng về cách tạo tượng của thời Lý…). Cụ thể là: đầu tượng có sọ trên nở, hàm thon hơn, mặt trái xoan, mà theo một số nhà nghiên cứu dân tộc học mỹ thuật truyền thống thì đó là một chi tiết để biểu hiện về sự phát triển cao độ của trí tuệ. Tóc tượng xoắn ốc, phủ đầy ở đầu và cả tóc mai xuống tới tận giữa tai và kín cả nhục kháo (unisa). Những vân ốc này được thể hiện khá đều, cân đối to nhỏ hợp lý, góp phần chưa phân biệt rạch ròi giữa sọ với nhục kháo (tương đồng với nhiều tượng Phật thời Mạc bằng đá ở chùa Hòa Liễu – Hải Phòng và một vài chùa khác…). Tượng có một bộ mặt mang nét chân dung chuẩn mực, gần gũi với khuôn mặt của người Ấn, với sống mũi cao, thẳng, nguyệt mi cong, mắt nổi khối vồng, miệng cân phân đầy đặn, khóe miệng cong lên trên. Khuôn mặt có nhiều chi tiết thuộc về đạo mà vẫn hết sức đôn hậu, thanh tú. Tóm lại, đây là một khuôn mặt tự nhiên, chưa bị cường điệu để gắn với nhiều chi tiết cao quý do người thời sau thường áp đặt.

Thân tượng rất dày, ngực nở căng, bụng thon vừa phải, thế ngồi mềm mại, uyển chuyển, nhịp nhàng. Đặc biệt, áo cà sa như chỉ có một lớp, và còn bó sát người như kế thừa từ phong cách nhà Lý (có ảnh hưởng từ dòng nghệ thuật Gandhâra miền Bắc Ấn Độ), với các chi tiết nổi bật như tạo thành hõm rõ rệt ở giữa cánh tay và thân, đồng thời các nếp áo còn ít, không quá nhiều như ở tượng thời kỳ sau.

Tòa sen mang phong cách thời Mạc. Khối căng, cánh sen phồng lên, đầy đặn, đầu cánh sen có gờ cạnh, cánh sen kết cấu với trục đài sen ở một góc lớn hơn 750.

Bộ tượng Tam thế Phật chùa Côn Sơn là một trong không nhiều bộ tượng đẹp thời Lê Trung Hưng. Các pho tượng được chạm rất kỹ, được quan tâm tới từng chi tiết. Người nghệ sĩ đã chú ý tới một vẻ đẹp theo quan niệm đương thời trong hình thức phúc hậu, thanh thoát. Bộ tượng Tam thế Phật mang ý nghĩa về các lực lượng tự nhiên, phản ánh tục cầu mưa, cầu mùa, là khát vọng hằng xuyên của người Việt vùng châu thổ Bắc Bộ. Yếu tố dung dị phóng khoáng của tâm thức bản địa đã Việt hóa những khuôn mẫu tôn giáo, tạo nên sự dung hội văn hóa trong ngôi chùa của người Việt.

Mặt khác, xuất hiện trong lòng Di tích Quốc gia Đặc biệt, bộ tượng Tam Thế Phật góp phần minh chứng một giai đoạn phát triển và khẳng định giá trị lịch sử của chùa Côn Sơn.

Với những giá trị đặc sắc, bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn được Ban quản lý di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc lập hồ sơ trình các cấp có thẩm quyền công nhận là Bảo vật quốc gia.

Tin bài, ảnh: Phòng Nghiệp vụ

Trả lời