TỔNG QUAN LỊCH SỬ VĂN HOÁ HẢI DƯƠNG

Tỉnh Hải Dương ngày nay nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh), có diện tích tự nhiên 1.661,2km2, dân số gần 1,7 triệu người; tiếp giáp 6 tỉnh, thành phố: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình và Hưng Yên; gồm 1 thành phố, 11 huyện, 263 xã – phường, 1411 thôn – khu dân cư.

Hải Dương nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh), có diện tích tự nhiên 1.661,2km2, dân số gần 1,7 triệu người; tiếp giáp 6 tỉnh, thành phố: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình và Hưng Yên; gồm 1 thành phố, 1 thị xã, 10 huyện, 263 xã – phường, 1411 thôn – khu dân cư.

Thời Hùng Vương, Hải Dương thuộc bộ Dương Tuyền; thời Bắc thuộc, thuộc Hồng châu; thời Trần đổi thành Hồng lộ, đến năm Quang Thái thứ 10 (1397), đổi là Hải Đông lộ; thời thuộc Minh (1407-1428) là phủ Nam Sách. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), cả nước chia thành 5 đạo, Hải Dương thuộc Đông Đạo; năm Quang Thuận thứ 7 (1466), đổi thành thừa tuyên Nam Sách; năm Quang Thuận thứ 10 (1469), đặt là thừa tuyên Hải Dương, sau là trấn Hải Dương. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đặt là tỉnh Hải Dương. Tháng 1/1968, sáp nhập với tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Tháng 2 năm 1997, tỉnh Hải Dương được tái lập, trên cơ sở tách tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh như cũ.

Hải Dương nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cái nôi của nền văn minh Sông Hồng, lại cận kề Kinh thành Thăng Long, trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước; đương nhiên, văn minh Sông Hồng, văn hoá Thăng Long trực tiếp tác động và kết tinh nhiều thành tựu rực rỡ trên đất này. Hải Dương là vùng đất trù phú, cảnh quan đa dạng, hệ thống sông ngòi chằng chịt; giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông rất thuận tiện, với nhiều tuyến đường huyết mạch của cả nước chạy qua. Từ bao đời, xứ Đông vẫn là “phên dậu phía Đông” của Kinh thành Thăng Long, là địa bàn chiến lược, với những vị trí trọng yếu trong các cuộc chiến tranh giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc; Hải Dương án ngữ các đường thuỷ bộ chủ yếu để tiến vào Thăng Long và rút chạy của những đội quân xâm lược phương Bắc. Hình thế núi sông hiểm yếu (đặc biệt là vùng Chí Linh, Kinh Môn), rất thuận lợi cho người chỉ huy tác chiến có tài, cả khi công hoặc khi thủ, tiến hay lui. Vì vậy, rất nhiều nhà quân sự – văn hoá lỗi lạc của dân tộc đã đến đây, nghiên cứu thực địa, bày thế trận, lập chiến công, để lại dấu son không bao giờ phai trong lịch sử nước nhà.

Hải Dương có 9 huyện đồng bằng phì nhiêu bát ngát, tiếp giáp là hai huyện, thành phố Chí Linh và Kinh Môn (liền một dải với huyện Đông Triều – từ năm 1961 về trước vẫn  thuộc Hải Dương) là một vùng núi non kỳ thú, sơn thuỷ hữu tình, nhiều núi đẹp nổi tiếng từ xưa: Trán Rồng, Côn Sơn, Ngũ Nhạc, Phượng Hoàng, Bái Vọng, Trúc Sơn, An Lạc, An Phụ, Kính Chủ v.v. Đây là vùng đất lý tưởng để các bậc tiên hiền thấm nhuần lẽ xuất xử của đạo Nho lựa chọn. Ở đây, khi bất đắc chí, phải lui về (xử), chỉ đi qua vài dốc núi, nhà nho đã vào đến chốn lâm tuyền, đã tìm được nơi vô cùng thanh tĩnh, yên ả để ở ẩn, tránh thế tục, “lánh đục về trong”. Khi thời cơ đến cần ra giúp đời, chỉ một hai khắc giờ đã kịp về với đồng bằng, với cuộc đời rộng lớn, thậm chí chỉ một hai ngày đường bộ hoặc ngồi thuyền là đã về tới Thăng Long, hoặc dễ dàng, mau chóng tới những địa phương khác – nơi cuộc đời đang cần họ ra tay “trị quốc, bình thiên hạ”. Có thể nói: Hải Dương là địa bàn thuận lợi cho các danh nhân, cả dụng văn và dụng võ, cả khi hành và khi chỉ, cả lúc xuất lẫn lúc xử *1. Người Hải Dương lại có truyền thống hiếu học, khao khát tri thức, tôn trọng nhân tài, giàu ân nghĩa với người có công với nước, luôn nhiệt tình chào đón và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhân tài đến Hải Dương sống và phấn đấu vì nghiệp lớn.

Những điều kiện địa lý, lịch sử và con người nói trên đã là nguyên nhân  làm cho xứ Đông trở thành nơi sinh ra nhiều danh nhân, thành nơi mời gọi nhiều anh tài 4 phương về đây lập nghiệp. Không phải ngẫu nhiên, Lê Đại Hành chọn núi rừng An Lạc đóng đại bản doanh chỉ huy trận Bạch Đằng đại thắng năm 981; Trần Hưng Đạo – vị tướng tài kiệt xuất, Nguyễn Trãi – danh nhân văn hoá thế giới cùng  Chu Văn An, người thầy tiêu biểu mẫu mực của muôn đời, đó là những nhân vật vĩ đại bậc nhất của đất nước, đã gắn bó máu thịt với Hải Dương. Cuộc đời, sự nghiệp của của các danh nhân cùng quá trình lao động sáng tạo của đông đảo nhân dân, qua nhiều thế hệ, đã làm cho Hải Dương  –  “đất học”, “đất danh nhân”, “đất văn hiến” – xây dựng được nhiều truyền thống quý báu, để lại một kho tàng văn hoá thật phong phú, đa dạng và độc đáo. Đó là một khối lượng lớn văn hoá vật thể và phi vật thể rất giá trị, với hàng ngàn di tích quý, hàng trăm làng nghề lâu đời, nhiều sản phẩm văn hoá ẩm thực và nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc, nhiều sinh hoạt văn nghệ dân gian nổi tiếng như hát chèo, hát đối, hát  trống quân, cò lả và rất nhiều bài ca dao dân ca làm say đắm lòng người.

Toàn tỉnh hiện có 1.098 di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng; trong đó có 133 di tích được xếp hạng quốc gia, tiêu biểu là Côn Sơn, Kiếp Bạc, Phượng Hoàng (Chi Linh) An Phụ, Kính Chủ (Kinh Môn). Các di tích trên địa bàn mang dấu ấn của nhiều thời đại: thời đồ đá cũ có niên đại trên 3 vạn năm ở hang Thánh Hoá – núi Nhẫm Dương (Kinh Môn), thời đại đồ đồng với những di chỉ, di vật quý tại Đồi Thông (Kinh Môn), Hữu Chung (Tứ Kỳ), làng Gọp (Thanh Hà)… Văn hoá Lý – Trần, Lê, Nguyễn là một dòng chảy đậm đặc và liên tục trên vùng đất này, để lại dấu ấn đậm nét trong hàng loạt di tích, gắn liền với những sự kiện kịch sử trọng đại, những danh nhân nổi tiếng. Chỉ riêng thị xã Chí Linh đã có hàng trăm di tích quý như thế; trong một không gian chừng 10km2 thuộc bốn xã Hưng Đạo, Văn An, Lê Lợi, Cộng Hoà đã có hàng chục di tích lưu giữ những kỷ niệm về 3 danh nhân vĩ đại: Trần Hưng Đạo – danh nhân quân sự (Kiếp Bạc), Nguyễn Trãi – danh nhân văn hoá (Côn Sơn), Chu Văn An – danh nhân giáo dục (Phượng Hoàng).

Hải Dương còn là quê hương của nhiều làng nghề truyền thống danh tiếng như chạm khắc đá Kính Chủ (Kinh Môn), chạm khắc gỗ Đông Giao (Cẩm Giàng), kim hoàn Châu Khê và gốm Cậy (Bình Giang); gốm Chu Đậu (Nam Sách); khắc ván in Hùng Lục, Liễu Tràng (Gia Lộc), thêu Xuân Nẻo (Tứ Kỳ), dệt chiếu Tiên Kiều (Thanh Hà)… Sản phẩm của các làng nghề truyền thống thể hiện sự sáng tạo, khéo léo, tài hoa của người xứ Đông, được khách hàng trong nước và quốc tế ưa chuộng.

Hệ thống di tích lịch sử – văn hoá – danh thắng, đặc biệt là các di tích quan trọng của quốc gia trên địa bàn, cùng với hệ thống các làng nghề nổi tiếng, góp phần quan trọng làm cho Hải Dương trở thành một vùng văn hoá đặc biệt hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu của khách thập phương về các phương diện: tìm hiểu lịch sử – văn hoá, sinh hoạt tâm linh, thưởng ngoạn cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, chiêm ngưỡng bàn tay tài hoa, khéo léo và các sản phẩm nghệ thuật tinh xảo của các nghệ nhân làng nghề…

Người Hải Dương không chỉ giỏi làm ra nhiều nông sản, đặc sản quý như gạo nếp cái hoa vàng (Kinh Môn, Cẩm Giàng), vài thiều (Thanh Hà), dưa hấu (Gia Lộc), na dai, chuối mật (Chí Linh)… mà còn giỏi chế biến nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng khắp trong, ngoài nước như bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh cuốn (TP. Hải Dương), bánh gai (Ninh Giang), bánh đa Kẻ Sặt (Bình Giang), rượu Phú Lộc (Cầm Giàng), giò chả (Gia Lộc), chả, mắm rươi (Kim Thành), mắm cáy (Thanh Hà)…. Văn hoá ẩm thực của Hải Dương phong phú, đa dạng, dân dã mà tinh tế, hấp dẫn. Hương vị đặc biệt của các món ẩm thực địa phương đã làm cho người Hải Dương tự tin mời khách bốn phương và những người đã một lần thưởng thức, thì xa lâu còn nhớ.

Giá trị đặc trưng của văn hoá phi vật thể xứ Đông được thể hiện ở các lễ hội truyền thống, ở phong tục, tập quán, lối sống của cộng đồng người Hải Dương xưa và nay; ở các hoạt động văn nghệ dân gian; ở một khối lượng không nhỏ những trước tác về chính trị, quân sự, văn hoá – xã hội, về sử học, y học … của các trí thức lớn, các nhà khoa bảng người Hải Dương. Với 566 lễ hội được khôi phục, đặc biệt, với việc từng bước thực hiện thành công Đề án nâng cấp lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc giai đoạn 2006 – 2010 đã một phần thể hiện rõ nét yếu tố văn hóa đặc trưng này. Đó là, lễ hội mang đậm yếu tố lịch sử, phong tục, tín ngưỡng tôn giáo, tưởng niệm và ngợi ca công lao, đức hạnh của các bậc hiền tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, giáo dục các thế hệ hướng tới sự tiến bộ, sự cao đẹp; cầu mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, đời sống ấm no, hạnh phúc… Mồng 4 tết âm lịch, đình Nhân Lý (Nam Sách) khai hội – lễ hội mở đầu của mùa lễ hội Xuân. Từ 16 đến 21 tháng giêng là lễ hội Xuân Côn Sơn. Tháng tám mùa thu, Lễ hội đền Kiếp Bạc, một trong những lễ hội lớn nhất của cả nước. Đến với lễ hội xứ Đông, du khách sẽ được tham dự các lễ rước lớn, các cuộc biểu diễn nghệ thuật, các trò chơi dân gian, diễn xướng đặc sắc: Lễ đàn Mông Sơn thí thực (lễ hội Côn Sơn); hội quân, hội hoa đăng trên sông Lục Đầu (lễ hội đền Kiếp Bạc); bơi chải (lễ hội Đền Quát – Gia Lộc; Đình Cậy – Bình Giang), đánh gậy (lễ hội Đền Cuối, Gia Lộc); hát đối (lễ hội Đền Vàng, Gia Lộc), hát chầu văn (Đền Tranh, Ninh Giang); đặc biệt là trò đánh bệt (lễ hội Đền Sượt – TP Hải Dương), thi bày mâm ngũ quả và thi nấu cơm (lễ hội chùa Minh Khánh và lễ hội chùa Hào Xá, Thanh Hà)…

Có thể nói: Lễ hội và di tích ở Hải Dương là một tiềm năng, thế mạnh lớn cho ngành du lịch của tỉnh và của cả vùng Đông Bắc đất nước.

Cùng với lễ hội dân gian, nghệ thuật chèo cũng phát triển sớm, sâu rộng và đạt nhiều thành tựu, khiến xứ Đông thành một cái nôi chèo của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chiếng chèo Đông, từ những năm ba mươi của thế kỷ XX đến nay, vẫn rất nổi tiếng, đã sinh ra và nuôi dưỡng nên nhiều nghệ nhân tên tuổi: Phạm Thị Trân, Trùm Thịnh, Trùm Bôn, cố nghệ sĩ nhân dân Trịnh Thị Lan, Minh Lý. Những nghệ sĩ tài năng ấy đã có đóng góp đáng tự hào cho nghệ thuật chèo Việt Nam hiện đại. Cùng với chèo, hát ca trù trên đất Hải Dương cũng rất phổ biến, với không ít nghệ nhân tài ba. Nghệ sĩ lão thành Nguyễn Phú Đẹ, tuy tuổi đã ngoại tám mươi, vẫn được giới chuyên môn đánh giá là cây đàn đáy bậc thầy và diệu nghệ nhất, viên ngọc quý của nghệ thuật ca trù Việt Nam hiện nay. Tiềm năng văn hoá xứ Đông rất lớn, còn vì vùng đất này vẫn đang lưu giữ rất tốt nhiều loại hình văn nghệ, cả bác học lẫn dân gian: Tuồng, xiếc, rối nước, hát trống quân, hát đối, hát ru, ca dao, tục ngữ. Kho tàng văn nghệ truyền thống khá đồ sộ trên địa bàn, thể hiện một cách nhuần nhị những nét thuần hậu, tinh tế, trữ tình và lạc quan trong tâm hồn, cốt cách của người tỉnh Đông, có sức thu hút mạnh mẽ đối với du khách.

Văn hoá xứ Đông phong phú, đa dạng, có giá trị nhiều mặt bởi được hình thành, tạo dựng không chỉ từ truyền thống lao động cần cù và thông minh sáng tạo mà còn từ truyền thống yêu nước anh hùng của người Hải Dương. Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đất và người Hải Dương đã góp phần vẻ vang làm nên những mốc son lịch sử chói lọi trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với tên tuổi nhiều nhân vật nổi tiếng cả nước, tiêu biểu là 2 nữ tướng Thiện Nhân, Thiện Khánh (thời Bà Trưng); là Khúc Thừa Dụ, người khởi đầu cho thời kỳ khôi phục và xây dựng nền độc lập sau hàng ngàn năm Bắc thuộc; là các quan, tướng lừng danh: Yết Kiêu, Trần Khắc Chung, Trần Khánh Dư, Nguyễn Chế Nghĩa … (thời Trần); là Nguyễn Trãi, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới (thời Lê sơ); là Nguyễn Hữu Cầu, người anh hùng nông dân khởi nghĩa nổi tiếng nhất thế kỷ XVIII (thời Lê mạt); là Đốc Tít, Đỗ Quang, những anh hùng cần vương chống Pháp (thế kỷ XIX); là Lê Thanh Nghị, Nguyễn Lương Bằng, những chiến sỹ cách mạng kiên cường, có công lao to lớn trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập của Tổ quốc (thế kỷ XX). Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hải Dương đã có trên 30 vạn thanh niên lên đường bảo vệ Tổ quốc, trong số đó có hơn 38 ngàn liệt sỹ; toàn tỉnh có gần 1,7 ngàn Mẹ Việt Nam anh hùng. Đất nước và nhân dân đời đời ghi nhớ công  lao của những người đã cống hiến hy sinh vì độc lập – tự do. Họ là những tấm gương sáng chói cho các thế hệ hôm nay và mai sau noi theo.

Hải Dương xưa nay rất nổi tiếng bởi truyền thống hiếu học và khoa bảng; là tỉnh đứng đầu cả nước về số người đỗ đại khoa*2,với 498 tiến sĩ nho học, trong đó có 11 trạng nguyên, một người (Nguyễn Thị Duệ), hiện được coi là nữ tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Nam Sách có 125 tiến sỹ, nhiều nhất cả nước tính theo địa bàn cấp huyện. Làng Mộ Trạch (huyện Bình Giang) có 39 tiến sỹ, được tôn vinh là Làng Tiến sĩ của nước Nam. Văn Miếu Mao Điền (Cẩm Giàng), Văn Miếu của trấn Hải Dương xưa, là một minh chứng cho truyền thống hiếu học của người tỉnh Đông, một trung tâm đào tạo nhân tài cho đất nước. Trong số những nhà khoa bảng của tỉnh Hải Dương, có rất nhiều người có tài đức lớn, lập được nhiều công trạng đối với Tổ quốc, nhân dân; nhiều người để lại những trước tác nổi tiếng trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, khoa học, văn học, ngoại giao… như: Tuệ Tĩnh, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Lê Cảnh Tuân, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lương Như Hộc, Vũ Hữu, Vũ Quỹnh, Nguyễn Dữ, Lê Quang Bí, Đỗ Uông, Vũ Phương Đề, Phạm Quý Thích, Nguyễn Quý Tân. Ở thời đại nào, Hải Dương cũng là tỉnh đóng góp nhiều nhân tài, vật lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, phát huy truyền thống hiếu học của quê hương, noi gương các bậc tiên hiền, các thế hệ người tỉnh Đông đã phấn đấu không ngừng, làm cho Hải Dương luôn giữ vững vị trí  hàng đầu về phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo, có nhiều học sinh giỏi quốc gia và quốc tế.

Nhận thức sâu sắc rằng: Kho tàng văn hoá truyền thống do tổ tiên để lại đó là vốn di sản quý báu, là cơ sở xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam dân tộc, hiện đại, là nguồn nội lực trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, nên ngay sau ngày hoà bình lập lại, các cấp uỷ Đảng, chính quyền và toàn ngành Văn hoá Thông tin tỉnh nhà đã luôn chăm lo việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá của tỉnh.

Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, đã có trên 70% di tích trên địa bản được chống xuống cấp bằng nguồn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn nhân dân đóng góp. Các khu di tích: Cơn Sơn, Kiếp Bạc, Phượng Hoàng, An Phụ, Văn Miếu Mao Điền, cụm di tích Tuệ Tĩnh và hàng loạt di tích xếp hạng quốc gia khác trên địa bàn được quy hoạch và từng bước trùng tu, tôn tạo. Các công trình có giá trị lịch sử, văn hoá, nghệ thuật cao như tượng đài Trần Hưng Đạo trên núi An Phụ, đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần Nguyên Đán và đường lên Ngũ Nhạc Linh Từ tại Côn Sơn, đền thờ Tuệ Tĩnh tại xã Văn Thai, Điện Lưu Quang và đền thờ Chu Văn An tại khu di tích Phượng Hoàng…được xây dựng mới hoặc tu bổ lớn những năm gần đây. Môi trường cảnh quan tại các khu di tích được bảo vệ khá tốt. Những nỗ lực to lớn của tỉnh đã góp phần nâng vị thế văn hoá xứ Đông lên một tầm cao mới, đáp ứng nhu cầu của hàng triệu du khách tới tham quan, nghiên cứu học tập và sinh hoạt văn hoá tâm linh tại các di tích.

Công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy văn hoá phi vật thể cũng được UBND tỉnh quan tâm đầu tư, ngành Văn  hoá Thông tin thực hiện có hiệu quả. Tỉnh đã hoàn thành nhiều công trình khoa học nghiên cứu về phong tục tập quán, lễ hội, văn nghệ dân gian, di sản Hán nôm, làng nghề truyền thống, nhân vật chí v.v. Đó là những nguồn tư liệu quí giá cho công tác nghiên cứu khoa học, góp phần giáo dục truyền thống, xây dựng lối sống cao đẹp cho các thế hệ người Hải Dương hôm nay và mai sau. Hàng loạt làng nghề truyền thống được khôi phục và hỗ trợ phát triển theo một quy hoạch thống nhất, hiện đang hoạt động có hiệu quả, sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị thẩm mỹ và kinh tế cao, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và du lịch, dịch vụ. Các loại hình văn nghệ truyền thống như: Hát chèo, hát tuồng, hát ca trù, hát chầu văn, hát đối, hát trống quân đang được hồi sinh mạnh mẽ thông qua các hoạt động biểu diễn, giao lưu, liên hoan nghệ thuật, hội diễn, hội thi của đông đảo quần chúng tại các địa phương trong tỉnh… Hiện nay Hải Dương còn có 8 đoàn nghệ thuật xiếc tư nhân, 3 phường rối nước đang được bảo tồn và hoạt động hiệu quả, không chỉ thể hiện niềm đam mê nghệ thuật và ý thức trách nhiệm của các nghệ sỹ, của đông đảo nhân dân Hải Dương trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hoá; đồng thời, đây là bằng chứng về những nỗ lực của tỉnh, của ngành Văn hoá – Thông tin, đối với việc đẩy mạnh công tác xã hội hoá, quyết tâm xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Cùng với sự bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, các thiết chế và nếp sống văn hoá mới đang ngày càng được xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động. Thiết chế văn hoá cấp tỉnh đều tập trung tại thành phố Hải Dương. Bảo tàng tỉnh đang lưu giữ hơn 41 nghìn hiện vật, 16 bộ sưu tập hiện vật gốm, hàng năm thu hút hàng chục nghìn lượt người tới tham quan, học tập, nghiên cứu. Thư viện tỉnh có hơn 92 ngàn bản sách, gần 200 loại báo, tạp chí, với trên 50 ngàn lượt bạn đọc trong 1 năm. Nhà Triển lãm Thông tin hàng năm tổ chức từ 3 đến 4 cuộc triển lãm. Các thành tựu, sản phẩm kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước và của tỉnh được phản ánh khá kịp thời qua công tác triển lãm, thông tin, cổ động. Nhà Văn hoá Trung tâm tỉnh là nơi tổ chức nhiều sự kiện chính trị, văn hoá lớn của tỉnh, đồng thời, còn là địa chỉ yêu thích của hàng ngàn hội viên tới sinh hoạt nhiều loại hình văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao. Rạp chiếu bóng, Nhà hát nhân dân cũng đang được đổi mới hoạt động sau nhiều năm đối mặt với sự chuyển đổi của cơ chế thị trường, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu hưởng thụ ngày càng cao của công chúng. Tại các huyện – thành phố, các  xã, thôn – khu dân cư, đều được tỉnh hỗ trợ và nhân dân đóng góp xây dựng Nhà văn hoá, thư viện, tủ sách và duy trì được các hoạt động thường xuyên, có chất lượng, nên lôi cuốn đông đảo nhân dân, góp phần nâng cao đời sống văn hoá cộng đồng.

Công tác xây dựng nếp sống mới được đẩy mạnh. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” với các nội dung lớn: “Xây dựng Làng Văn hoá”, “Xây dựng Cơ quan – đơn vị Văn hoá”, “Xây dựng Gia đình Văn hoá”, “Xây dựng nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội” được phối hợp tích cực của Uỷ ban MTTQ, của các cấp, các ngành, đoàn thể và sự hưởng ứng tích cực của toàn dân, nên đã phát triển thành phong trào cách mạng rất sôi nổi, sâu rộng, đem lại hiệu quả thiết thực. Đến cuối năm 2007, toàn tỉnh đã xây dựng được 661 Làng, Khu dân cư, Cơ quan – đơn vị Văn hoá, đạt tỷ lệ  46,4 %, có 350.208 gia đình được công nhận là Gia đình Văn hoá, đạt tỷ lệ    75,1 %. Hải Dương hiện là tỉnh dẫn đầu toàn quốc trong phong trào “Xây dựng nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội”. Một đời sống văn hoá mới thực sự đang sinh sôi, phát triển trên mảnh đất Hải Dương.

Ngày nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, tỉnh Hải Dương đang phát triển mạnh mẽ, toàn diện; đặc biệt, sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới ngày càng khởi sắc, phát triển đồng bộ và chất lượng, khẳng định vị thế, tầm vóc  của văn hiến xứ Đông trong lịch sử cũng như trong cuộc sống hiện tại, góp phần xứng đáng vào việc làm cho tỉnh Hải Dương trở thành điểm đến lý tưởng của thế kỷ XXI  để  du khách tha hồ khám phá, thưởng thức và du lịch./.

Ghi chú:

*1. Xuất và xử, hành và chỉ: Phương châm xử thế của các nhà Nho. Khi gặp minh quân, thánh chúa, lúc có thời cơ có thể đem tài đức ra giúp đời thì ra (xuất) thi thố với đời, phò vua giúp nước, giúp dân (hành); vào lúc hôn quan bạo chúa trị vì, lúc dòng đời đen bạc, không thể tỏ chí mình, ở lại khó giữ được thanh danh, thì dừng không làm việc phò vua nữa, thôi làm quan (chỉ), lui về ở ẩn (xử), lánh chỗ đục, về chỗ trong.

*2. Tính theo đơn vị tỉnh, thì Hải Dương đứng đầu,  nếu tính theo tỷ lệ số tiến sỹ trên số dân, thì tỉnh Bắc Ninh đứng đầu.

Để lại một bình luận