NHẬN DIỆN GIÁ TRỊ NỔI BẬT TOÀN CẦU KHU DI TÍCH CÔN SƠN – KIẾP BẠC

Thế kỷ XIV, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã chọn vòng cung Đông Bắc để xây dựng những cơ sở thờ tự, tu thiền đầu tiên của dòng thiền Trúc Lâm như: Yên Tử, Hồ Thiên, Ngọa Vân, Quỳnh Lâm, Thanh Mai, Côn Sơn, Kiếp Bạc, Vĩnh Nghiêm…Trong không gian văn hóa, tôn giáo đặc trưng đó khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) có vị trí rất quan trọng là cầu nối giữa kinh đô Thăng Long với Thánh địa Trúc Lâm Yên Tử. Từ đây dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phát triển, lan tỏa khắp đồng bằng, trung du Bắc Bộ, ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tâm linh của cộng đồng người Việt.

  1. Những giá trị của khu di tích

Về nhân thần: Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi là hai ngôi sao sáng nhất trong bầu trời Đại Việt. Quốc công tiết chế là người tổng chỉ huy quân đội, kháng chiến đại thắng Mông Nguyên, người viết Hịch tướng sĩ, một áng thiên cổ hùng văn bất hủ đã đưa ông lên hàng những nhà chiến lược quân sự thiên tài, ngang tầm những danh tướng trên thế giới. Nguyễn Trãi linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người viết tuyên ngôn ở đầu thế kỷ XV. Trong Phú núi Chí Linh, Nguyễn Trãi viết “Tắt muôn đời chiến tranh”, đó cũng là mục tiêu phấn đấu của Hội đồng hòa bình thế giới hôm nay.

Về cảnh quan: Kiếp Bạc núi non trùng điệp, sông nước bao la, vừa là vị trí quân sự hiểm yếu, vừa mang cảnh sơn thủy hữu tình, rất phù hợp cho truyền thống trẩy hội bằng thuyền. Côn Sơn mang dáng vẻ u tịch của chốn thiền lâm, phù hợp với đạo Thiền và những con người từng trải sóng gió cuộc đời về đây di dưỡng tinh thần, lấy lại sự cân bằng cho cuộc sống.

Về tín ngưỡng, tôn giáo: Kiếp Bạc từ lâu đã thành một trung tâm tín ngưỡng, Trần Hưng Đạo trở thành một vị Thánh trong tâm thức dân gian. Côn Sơn là chốn Tổ của thiền phái Phật giáo Trúc Lâm, một thiền phái mang tư tưởng tự cường dân tộc. Ba vị tổ của thiền phái này cũng là ba nhân vật lịch sử và văn hóa tiêu biểu của dân tộc. Hơn thế đây còn là di tích gắn liền với đại gia đình Nguyễn Trãi, với ông ngoài là quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán, cha là Nguyễn Phi Khanh, mẹ là Trần Thị Thái.

Về kiến trúc: Dù bị chiến tranh tàn phá, Kiếp Bạc vẫn giữ được một ngôi đền có kiến trúc thời Nguyễn khá “đồng bộ” với những pho tượng đồng quý báu. Côn Sơn còn dấu ấn của ngôi chùa cổ cùng hệ thống tượng Phật và bia ký có giá trị đặc biệt.

Về khảo cổ học: Kiếp Bạc tiềm ẩn những di tích thời Đông Sơn, những dấu vết văn hóa của thiên niên kỷ I, đặc biệt là những di tích kiến trúc độc đáo và hoành tráng liên quan trực tiếp đến Trần Hưng Đạo; những lò gốm cổ trong thái ấp của Quốc công, là nơi khởi nguồn của dòng gốm sứ ở những thế kỷ sau của xứ Đông. Côn Sơn đã khai quật được ngôi tháp đất nung tiêu biểu, nền móng tòa Cửu Phẩm liên hoa thời Trần, ngói tráng men hoa nâu, dấu vết Thanh Hư Động và kiến trúc ngôi chùa do Tổ Pháp Loa chủ trì dựng năm 1329.

Về lễ hội và du lịch: Hàng năm, Côn Sơn – Kiếp Bạc có hai kỳ lễ hội truyền thống là lễ hội mùa xuân, kỷ niệm ngày viên tịch (23 tháng Giêng năm 1334) của thiền sư Huyền Quang tôn giả – vị tổ thứ ba của thiền phái Phật giáo Trúc Lâm ở thế kỷ XIV. Lễ hội mùa thu, kỷ niệm ngày mất của hai vị anh hùng dân tộc là đức Thánh Trần Hưng Đạo (ngày 20 tháng 8 Âm lịch) và danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi (ngày 16 tháng 8 Âm lịch). Lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc đã trở thành tập tục văn hóa không thể thiếu trong đời sống tâm linh của cộng đồng dân tộc. Đến với lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc là ước vọng thiêng liêng, đã trở thành câu ca lưu truyền trong tình cảm của hàng trăm thế hệ người dân đất Việt: “Côn Sơn, Yên Tử, Quỳnh Lâm, Nếu ai chưa đến thiền tâm chưa thành”. Lễ hội đền Kiếp Bạc là ngày giỗ Cha: “Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”.

Lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc ngày nay không còn riêng biệt ở hai di tích mà hòa chung trong một không gian, với quy mô ngày càng lớn, ảnh hưởng sâu sắc trong cư dân châu thổ sông Hồng. Về thời gian, lễ hội Côn Sơn – Kiếp Bạc suốt 3 tháng mùa xuân và 3 thánh mùa thu. Cứ đến ngày quốc lễ, hàng chục vạn đồng bào khắp mọi miền của tổ quốc và nhiều kiều bào sống ở nước ngoài lại hành hương về Côn Sơn – Kiếp Bạc. Lễ hội có nhiều nghi thức, trò vui hội hè, hội chợ vô cùng phong phú.

  1. Chứng minh giá trị nổi bật toàn cầu

          Căn cứ 10 tiêu chí về giá trị nổi bật toàn cầu của di sản thế giới theo quy định của UNESCO tại Hướng dẫn thực hiện Công ước về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, Khu di tích và danh thắng Côn Sơn – Kiếp Bạc đáp ứng được các tiêu chí sau:

Tiêu chí (iii) – Chứa đựng một minh chứng duy nhất hoặc ít nhất cũng hết sức khác biệt về một truyền thống văn hoá hay một nền văn minh hiện vẫn đang tồn tại hoặc đã diệt vong.

Kết quả nghiên cứu khai quật khảo cổ học ở khu di tích Kiếp Bạc cho thấy vùng đất này là căn cứ quân sự liên hoàn được xây dựng từ thế kỷ XIII, XIV; gồm hệ thống các di tích: Sinh Từ, Hành Cung, Xưởng Thuyền, Hố Thóc, Xóm Hống, núi thuốc Dược Sơn, Hang Tiền, Ao Cháo, Hố Chân Bia, Viên Lăng, Bãi Thảo, Hồ Bến Tắm…Căn cứ vào tầng văn hoá, hệ thống di vật, đặc biệt là nền móng các công trình kiến trúc, sân lát gạch hoa thị, hệ thống lò gốm, mộ táng…đã chứng minh khu di tích Vạn Kiếp ở thế kỷ XIII, XIV được Hưng Đạo Đại Vương xây dựng với quy mô rất lớn. Sau kháng chiến chống Nguyên Mông, khu di tích Vạn Kiếp từ một căn cứ quân sự được xây dựng thành khu vực kinh tế với nhiều ngành nghề như: đóng thuyền, làm thuốc đặc biệt là sản xuất gốm sứ. Nghề sản xuất gốm sứ ở Vạn Kiếp kéo dài từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVI. Như vậy sau thời Trần, khu vực Vạn Kiếp mà trung tâm là đền Kiếp Bạc vẫn được các triều đại quan tâm xây dựng, duy trì phát triển, đời sống kinh tế, văn hoá khá ổn định.

Tại khu di tích Côn Sơn, các di vật, dấu tích kiến trúc phát hiện được có niên đại từ thế kỷ XVI – XVIII, đã làm sáng rõ quá trình hình thành, phát triển chùa Côn Sơn và các công trình kiến trúc trong khu vực Thanh Hư Động, mô phỏng lại dáng vẻ tráng lệ, quy mô hoành tráng của khu di tích trong lịch sử. Việc phát hiện nền móng tòa Cửu Phẩm liên hoa thời Trần tại chùa Côn Sơn, một kiến trúc Phật giáo mang giá trị cao về nghệ thuật tạo hình, không chỉ có ý nghĩa nhằm quảng bá tinh thần bác ái của Phật giáo đến quảng đại quần chúng nhân dân, mà còn thể hiện dấu ấn về lịch sử Phật giáo vào thời điểm chúng xuất hiện. Ngoài ra, sự xuất hiện của Cửu Phẩm liên hoa ở thế kỷ này còn góp phần làm thay đổi diện mạo kiến trúc tổng thể của ngôi chùa và thể hiện tính vượt trội về kĩ thuật kiến trúc mà các thế kỷ trước chưa hề có.

Các di vật khảo cổ đã chứng minh một nền văn hoá phát triển rực rỡ tại di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc ở các thời, đặc biệt là thời Trần. Từ công trình kiến trúc đến các đồ chuyên dụng đều mang phong cách, dáng dấp, nghệ thuật, thẩm mỹ tiêu biểu, điển hình của thời đại. Đó là chùa, tháp, Thanh Hư động, Sinh Từ… trung tâm sản xuất gốm Xóm Hống, lò gốm cóc Nam Tào, xưởng đóng thuyền, kho tích trữ thóc, tiền…

Cùng với hệ thống di tích là những bản kinh văn, khoa cúng, các bản sách quý hiếm, chứa đựng những giá trị tinh thần, tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm và nền văn hóa huy hoàng, rực rỡ thời Đại Việt giữa một vùng đồi núi chập trùng. Những giá trị tinh thần, tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm và nền văn hóa rực rỡ đó luôn đồng hành cùng sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, được các thế hệ nối tiếp kế thừa ngày một phát triển và đang được các thế hệ thiền sư sau này truyền bá đến nhiều quốc gia trên thế giới.

Tiêu chí (vi) – Có liên hệ trực tiếp hoặc có thể nhận thấy được với những sự kiện hay các truyền thống sinh hoạt, với các ý tưởng, hay các tín ngưỡng, với các công trình nghệ thuật hay văn học có ý nghĩa nổi bật toàn cầu.

Sau ba lần chiến thắng Mông Nguyên xâm lược, quân dân nhà Trần đã bước lên đỉnh cao của vinh quang. Mặc dù vậy Trần Nhân Tông vị vua anh hùng cũng đã dựa vào sức mạnh và ngoại giao làm cho “Nước lớn phải nể phục, nước nhỏ phải triều cống”. Tiếp đó Đức vua đã đi thuyết pháp đồng thời học hỏi ở nhiều cao tăng, trí thức trong nước và cả ở Chiêm Thành để thành lập thiền phái riêng của quốc gia Đại Việt, gọi là Trúc Lâm Yên Tử. Năm 1299, “Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường xuất gia vào núi Yên Tử tu hành khổ hạnh”. Ông trở thành vị tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm. Qua nhiều nguồn tư liệu để lại cho đến ngày nay được biết, thiền phái Trúc Lâm có ba vị tổ là: Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Văn bia ở Đăng Minh Bảo tháp có ghi pháp hiệu của ba vị thánh tổ của dòng thiền Trúc Lâm như sau:

 Đệ nhất đại Thánh tổ: Nam Mô Ma Ha Yên Tử Sơn, Hoa Yên Thiền Viện, Huệ Quang Kim Tháp, Đệ Nhất Đại Thánh Tổ Trúc Lâm Đầu Đà, Tịnh Huệ Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông Vương Phật.

Đệ nhị đại Thánh tổ: Nam Mô Ma Ha Phật Tích Sơn, Thanh Mai Thiền Viện, Viên Thông Bảo Tháp, Đệ Nhị Đại Thánh Tổ Trúc Lâm Đầu Đà, Pháp Loa Tôn Giả, Quốc Tứ Đặc Phong Phổ Tuệ Tịnh Trí Giác Thiền Tọa Hạ.

Đệ tam đại Thánh tổ: Nam Mô Ma Ha Côn Sơn, Chân Phúc Viện, Đăng Minh Bảo Tháp, Đệ Tam Đại Thánh Tổ Trúc Lâm Đầu Đà, Huyền Quang Tôn Giả, Quốc Tứ Đặc Phong Tam Giáo Trạng Nguyên Thiền Tọa Hạ.

Thiền phái Trúc Lâm được sáng lập trong hoàn cảnh nhà Trần hưng thịnh với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông, giang sơn được mở rộng, kinh tế phồn vinh, chính trị ổn định. Tư tưởng của “Thiền Trúc Lâm lấy sự giác ngộ trong lòng làm gốc, mong muốn đưa Phật đến mọi nhà, mọi người đồng thời cũng gắn Phật với cuộc sống thực tại, với vận mệnh của dân tộc”. Và như vậy, Thiền Trúc Lâm ra đời không để cứu rỗi chúng sinh lầm than như các tôn giáo khác, mà Thiền Trúc Lâm là phương tiện để hoàn thiện một giáo lý, một chân lý đốn ngộ và giải thoát bằng cách mỗi cá thể con người hãy làm việc thiện, hòa nhập mình trong khối đoàn kết của cộng đồng dân tộc: “Hãy sống hòa với đời một cách thoải mái, từ đó vẫn có thể giác ngộ, đó là nguyên tắc của Thiền Trúc Lâm”.

Thiền phái Trúc Lâm là Phật giáo hướng nội, Phật giáo nhập thế, khai phóng, vị tha. Thiền phái Trúc Lâm chủ trương gắn đạo với đời, gắn xu thế nhập thế của Thiền với việc giữ gìn làng nước của cả dân tộc, nó mang đậm bản sắc dân tộc, tinh thần yêu nước chân chính, tinh thần nhập thế tích cực, kết hợp chặt chẽ Đạo với Đời, Đời với Đạo. Giáo lý của Thiền phái Trúc Lâm được kết tinh bởi nhiều yếu tố và kế thừa, phát huy. Trên cơ sở kế thừa, Trúc Lâm Tam Tổ đã tập hợp lại thành các kinh văn, các bản sách rất quí giá như: “Thiền tâm thiết chủy ngữ lục”, “Đại Hương Hải ấn thi tập”, “Tăng già toái sự”, “Thạch thất mỵ ngữ”, “Truyền Đăng Lục”, “Thượng Sĩ hành trạng”, “Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương”, “Phổ Tuệ ngữ lục”, “Khoa cúng Cửu Phẩm”… Đây là những cuốn sách dạy cho các tăng môn và dân chúng của Thiền phái Trúc Lâm tu tập, sám hối và tu hành thập thiện.

Từ thế kỷ XV đến nay, Phật giáo có lúc thịnh lúc suy nhưng tư tưởng Thiền Trúc Lâm – Thiền nhập thế cứu đời vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay tư tưởng Thiền Trúc Lâm vẫn được phát huy, để đời và đạo hòa làm một, củng cố tinh thần tự tôn dân tộc, hưng bang đất nước, lợi lạc quần sinh.

Lê Duy Mạnh

Phó Trưởng ban QLDT Côn Sơn – Kiếp Bạc

Trả lời