TỪ PHAN LIÊU, ĐẶNG DUNG ĐẾN NGUYỄN TRÃI

Phan Liêu, Đặng Dung và Nguyễn Trãi là ba thanh niên sinh ra lớn lên thời Trần mạt. Ba người đều là dòng dõi của những đại quan làm việc vói triều đình nhà Trần. Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, thân sinh cả ba đều hợp tác với chế độ mới. Họ là những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thanh niên của đầu thế kỷ 15 phải chứng kiến sự phá sản thê thảm của triều đại nhà Trần

Vào cuối thế kỷ thứ 14 nước Đại Việt bắt đầu một giai đoạn suy vong. Ở đầu thế kỷ thứ 13, chỉ 200 năm trước đó, đoàn quân bách chiến bách thắng của Thành Cát Tư hãn và Hốt Tất Liệt đã phải bị khuất phục trưóc những chiến công hiển hách của Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải. Nhưng đến cuối thế kỷ 14, nhà Trần đã mất đi năng lực quốc phòng để gìn giữ biên giới. Các vị vua cuối cùng nhà Trần nhu nhược, yếu hèn. Nước Chiêm Thành nhỏ bé ở phương nam, dưới sự lãnh đạo của Chế Bồng Nga, đã hơn 10 lần đem quân vượt biên giới phía nam xâm phạm lãnh thổ và ba lần đem quân tàn phá kinh đô Thăng Long.

Trong bối cảnh đó, Hồ Quí Ly xuất hiện như một cái phao cứu vãn nhà Trần. Ông đã giúp triều đình cũng cố lại triều chính và quân đội. Hai cha con Hồ Quí Ly và Hồ Nguyên Trừng đã xây dựng đưọc một nền công nghệ quốc phòng cao độ có khả năng sản xuất được những vũ khí tân kỳ. Với khả năng quân sự mới đó, thủy quân Đại Việt đã giết được Chế Bồng Nga, chấm dứt được hoạ xâm lược của Chiêm Thành.

Nhưng cái phao cứu sinh Hồ Quí Ly đã trở thành sợi dây thòng lọng lịch sử cho nhà Trần. Với khôn ngoan, mưu lược cùng với quyền lực trong tay, Hồ Quí Ly đã chấm dứt nhà Trần và mở ra triều đại nhà Hồ.

Hồ Quý Ly là một con người văn võ toàn tài với đầy tham vọng, và là một nhà chính trị tài giỏi quyền biến. Nhưng Hồ Quý Ly phải đương đầu với tham vọng to lớn hơn ở phương bắc. Đó là tham vọng của Minh Thành Tổ, một hoàng đế thông minh đảm lược vừa mới cưóp ngôi người cháu ở Kim Lăng, Trung Hoa.

Đầu thế kỷ 15 là thời gian Trung Hoa đã được bình định và bước vào giai đoạn phục hưng. Năm 1398, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương băng hà. Ông truyền ngôi lại cho cháu đích tôn, tức là Huệ Đế. Năm 1402, Huệ đế bị chú là Yên Vương Lệ (Chu De) cứớp ngôi. Yên vương Lệ lên ngôi tức là Minh Thành Tổ.

Dưới thời Minh Thành Tổ, ông đã cho tổ chức hạm đội viễn dương với 48 chiếc tàu và 28.000 thủy binh dưói quyền chỉ huy của đô đốc Trịnh Hoà viễn du khắp nơi trên thế giới. Sử cho biết hạm đội Trịnh Hoà (Zheng He) thực hiện 7 chuyến viễn du, đã chinh phục các nuóc Nam Á, Phi châu, và gần đây các sử gia Tây Phương đã khám phá đoàn thám hiểm của Trịnh Hoà đã có dấu chân tại Greenland, Bắc cực và châu Mỹ trước cả Columbus, đem về cho Minh Thành Tổ rất nhiều vật lạ quí hiếm và sự thần phục của các vương quốc xa xôi.

Sự kiện nầy nói lên một điều là đối lực của dân quân Đại Việt bấy giờ là Minh Thành Tổ, một triều đại cực thịnh của Trung Hoa.

Minh Thành Tổ muốn mở rộng biên giới về phương nam. Nhân cơ hội một số quan lại nhà Trần chạy qua Kim Lăng dâng sớ tố cáo nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh đã phất ngọn cờ Diệt Hồ Phù Trần, để đem quân sang Đại Việt.

Năm 1406 Minh Thành Tổ phong Chu Năng làm Chinh Di Đại Tướng Quân, Trương Phụ làm Chinh Di Hữu Phó Tướng Quân cùng Mộc Thạnh làm Chinh Di Tả Phó tướng quân thống lĩnh 80 vạn quân chia làm hai cánh tràn xuống nước ta. (ĐVSKTT 307)

Thực chất của chiến dịch chinh nam với 800 ngàn quân dưới nhãn hiệu Diệt Hồ Phù Trần của nhà Minh là cuôc chiến tranh xâm lược đi liền với một cuộc di dân vĩ đại. Minh Thành Tổ muốn bình định Đại Việt để Đại Việt trở thành quận huyện của Trung Hoa như Ngô Việt, Mân Việt trước đây. Do đó, cuộc chinh nam lần nầy không phải chỉ là một cuộc viễn chinh quân sự thuần túy. Minh Thành Tổ đã phát động chiến tranh xâm lược tổng hợp quân sự, văn hoá và huyết thống. Đoàn quân 800,000 người đó có tác dụng pha loãng giòng máu của dân Việt ở phương nam, và làm thay đổi nếp sống và văn hoá Việt để đồng hoá vào Trung Hoa.

Đồng thời, mặt trận tâm lý với khẩu hiệu Diệt Hồ Phù Trần của Minh Thành Tổ đã đánh vào nhược điểm về giá trị chính thống của chính quyền Hồ Quí Ly. Đòn tâm lý nầy gây giao động mạnh mẽ trong quần chúng và chi phối mạnh mẽ ý chí chống xâm lăng của quân dân Đại Việt.

Mất tính chính thống, Hồ Quí Ly mất năng lực đạo đức để lãnh đạo công cuộc kháng chiến. Hồ Quí Ly đã thất bại trên mặt trận chiến tranh chính trị trước khi mặt trận quân sự bị sụp đổ.

Sự thất bại của nhà Hồ trong việc lãnh đạo công cuộc chiến đấu chống quân Minh đã đưa Đại Việt vào vòng nô lệ bắc triều lần thứ hai.

II.

Phan Liêu, Đặng Dung và Nguyễn Trãi là ba thanh niên sinh ra lớn lên thời Trần mạt. Ba người đều là dòng dõi của những đại quan làm việc vói triều đình nhà Trần. Khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, thân sinh cả ba đều hợp tác với chế độ mới. Họ là những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thanh niên của đầu thế kỷ 15 phải chứng kiến sự phá sản thê thảm của triều đại nhà Trần, một triều đại đã hơn một lần đưa dân tộc Đại Việt lên đỉnh cao của lịch sử .

Nguyễn Trãi, Đặng Dung và Phan Liêu đều sinh ra và lớn lên cùng thời kỳ. Nguyễn Trãi và Đặng Dung đi tìm con đường cứu nước. Nguyễn Trãi đã thành công và Đặng Dung đã phải tuẩn tiết. Riêng Phan Liêu đã đầu hàng giặc để làm quan.

1.

Phan Liêu là con của quan Thái phó Nghệ An Phan Quí Hữu. Nghệ An là cửa ngõ vào Hoá Châu. Lúc ấy lực lượng của Giản Định Đế và Trùng Quang Đế đang nắm giữ vùng Nghệ An Thanh Hoá. Năm 1413, Trương Phụ đem quân đánh Nghệ An. Phan Quí Hữu ra hàng. Phan Liêu được Trương Phụ cho làm tri phủ Nghệ An. Quân của Trùng Quang Đế chạy về Hoá châu. Phan Liêu đem thông tin quân số của Trùng Quang Đế cho Trưong Phụ biết. Nhờ đó, Trương Phụ đã tiêu diệt được lực lượng Nghĩa Quân. Trùng Quang Đế và Đặng Dung đều bị bắt trong trận Hoá Châu nầy và sau đó tự vẫn trên đưòng giải về Kim Lăng. Do sự phản bội của Phan Liêu, chế độ nhà Trần hoàn toàn cáo chung. Đến năm 1419, Phan Liêu bất đồng quan điểm với Mã Kỳ, một tướng lãnh quân Minh, nên đem quân giết quan quân nhà Minh ở Thanh hoá và chạy qua Ai lao.

Phan Liêu không đầu hàng ở giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh xâm lược. Ông đầu hàng vào năm 1413, tức là 6 năm sau khi Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân tràn vào Đại Việt. Trong thời gian đó, cha của Phan Liêu là Phan Quí Hữu đang còn làm quan cho nhà Hậu Trần, đang làm công tác phù Trần.

Ở giai đoạn nầy động lực cho sự hợp tác với quân Minh không còn là phù Trần nữa. Sau 6 năm chiếm đóng Đại Việt quân Minh không hề quan tâm đến việc đưa con cháu nhà Trần trở lại ngai vàng. Chiến dịch Diệt Hồ Phù Trần đã hiển nhiên trở thành cuộc chiến tranh xâm lược. Ở giai đoạn nầy, hàng quân Minh là sự chọn lựa giữa cái chết vinh vì đất nước và cái sống nhục theo quân xâm lược, là chọn lựa giữa đi với Trùng Quang vào núi kháng chiến và theo giặc Minh làm quan. Phan Liêu chọn con đường thứ hai.

Cuộc nổi loạn của Phan Liêu năm 1419 chắc chắn đã gây giao động mạnh trong hàng ngũ quân Minh. Nhưng vì cuộc nổi loạn không có tầm vóc lớn nên không gây ảnh hưởng rộng rãi và bị tiêu diệt ngay. Sau đó ông đã trốn sang Ai Lao và mất hút vào trong lịch sử.

Ở Phan Liêu chúng ta thấy được tính chất bất định của một con người đã mất định hưóng dân tộc. Ông hành xử bởi cá nhân và vì cá nhân. Ngay cả khi ông nổi loạn chống quân Minh, cái động lực chính là mâu thuẩn quyền lợi và cá tính giữa ông và tướng nhà Minh là Mã Kỳ. Do đó, ông không thấy được lực lượng Lam Sơn đang lớn mạnh, đang xoay đổi vận hội của dân tộc.

2.

Đặng Dung là con của quốc công Đặng Tất một đại quan nhà Trần, Cũng như tất cả những quan lại dưới triều Trần mạt, Đặng Tất đã hợp tác với chính quyền Hồ Quí Ly. Khi Trương Phụ đem quân xâm chiếm nước ta, Đặng Tất đang làm Đại Tri Châu ở hạt Hoá Châu. Lúc đầu ông theo giặc Minh được Trương Phụ cho tiếp tục giữ chức vụ cũ. Đến khi Giản Định Đế khởi nghĩa thì ông đem thành Nghệ an dâng cho Giản Định, và dâng con gái vào hậu cung. Đặc biệt Hoá Châu là vùng địa đầu ở phía nam của Đại Việt. Nói về đất Hoá Châu thì đây là nơi có địa thế rất hiểm trở. Năm 1413 khi Trương Phụ đem quân đánh Hoá Châu, Mộc Thạnh trình với Trương Phụ như sau: “Hoá Châu núi cao bể rộng khó lấy lắm.” (TTK tr. 204) Với truyền thống gia đình và địa phương anh linh như thế, Đặng Dung đã được hun đúc trở thành một võ tướng của nghĩa quân nhà hậu Trần. Trong lúc gian nan chỉ huy cuộc kháng chiến, ông đã để lại cho chúng ta bài thơ Cảm Hoài được sử gia Trần Trọng Kim dịch như sau:

Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay,
Vai khiên trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài vầng nguyẹt đã bao rày.

Bài thơ nầy được danh sĩ Lý Tử Tấn, một học giả thời Lê, tác giả Chuyết Am Văn Tập, nhận xét:”không phải người hào kiệt, không thể làm được.” Qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được Đặng Dung không những là một võ quan, một người yêu nước, mà còn là một người nghệ sĩ tài hoa. Cho đến ngày hôm nay, không ai một người Việt nào khi đọc hai câu cuối của bài Cảm Hoài mà không xúc động trước lòng yêu nước tuyệt vời của ông.

Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài vầng nguyệt đã bao rày.

Sau khi cha ông là Đặng Tất bị Giản Định Đế Trần Ngỗi giết chết, ông thấy được viễn ảnh đen tối của cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Trần Ngỗi. Con người Trần Ngổi quá thiển cận, thiếu tự tin, và thiếu tài lãnh đạo. Đặng Dung thấy nhu cầu của thế hệ mới đứng ra nhận trọng trách của lịch sử. Từ suy nghĩ đó, ông đã cùng người bạn đồng cảnh ngộ là Nguyễn Cảnh Dị con của đại tướng Nguyễn Cảnh Chân vừa bị giản Định Đế xử tử, đón Trần Quý Khoáng, là người cùng trang lứa với ông, để lập làm vua vào năm 1409. Trần Quí Khoáng là con Mẫn Vương Trần Ngạc. Mẫn vương là con vua Trần Nghệ Tông và là anh của Giản Định Đế. Trùng quang Đế gọi Giản Định Đế bằng chú.

Để tạo sự đoàn kết trong công cuộc kháng chiến Đặng Dung cùng Trần Quý Khoáng và những ngưòi bạn đồng chí hướng đã tái phối trí lại lực lượng kháng chiến. Trong tổ chức mới, quyền hành của thế hệ lớn tuổi bị giảm thiểu và những ngừoi trẻ đứng ra nắm binh quyền. Giản Định Đế đưọc bố trí làm thái thựơng hoàng, một vị trí uy tín nhưng không có thực quyền.

Đặng Dung nổ lực tạo sinh khí mới cho công cuộc kháng chiến bằng cách tạo điều kiện cho thế hệ trẻ đứng ra nắm chủ động việc lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nhưng sinh lực nhà Trần đã hết. Sau một vài chiến thằng nhỏ, quân kháng chiến đã phạm một số sơ suất chiến lược làm mất cơ hội bắt sống Trương Phụ. Từ đó, lực lượng kháng chiến yếu dần. Đồng thời quân Minh gia tăng hành quân, và với sự phản bội của Phan Liêu, Giản Định Đế đã bị bắt đưa về Kim lăng. Sau trận chiến ở Hoá Châu năm 1413, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy và Trùng Quang Đế cũng bi bắt. Đến đây nhà hậu Trần hoàn toàn cáo chung.

Trên đường bị giải về Kim Lăng vua tôi đã trầm mình tự vận. So với việc Giản Định Đế chiụ nhục về Kim Lăng, hành động đi tìm cái chết của Trùng Quang, Đặng Dung cũng như các tướng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy cho chúng ta thấy được dũng khí của một thế hệ trẻ yêu nước, rất lãng mạn, rất hào hùng, nhưng vô cùng bất hạnh.

Cuộc đời của Đặng Dung là tượng trưng cho lòng yêu nước trung trinh, để nợ nước lên trên thù nhà. Ông mang tâm sư “Vai mang trái đất mong phò chúa” đến hơi thở cuối cùng. Tận trung với vua, với nhà Trần cho đến tận cùng cái vận hạn của triều đại ấy.

Khi bàn đến cái thất bại của nhà Hậu Trần, Sử thần Ngô Sĩ Liên viêt: Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy, đem tàn quân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không?.

Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, vì sao vậy?. Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức giúp đỡ Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mơí chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được!

3.

Nguyễn Trãi là con của Nguyễn Ứng Long tự là Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là con thứ ba của quan Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán, một chức vị tương đương với tể tướng. Ông Nguyễn Phi Khanh là một học sinh nhà nghèo học giỏi. Sử sách kể rằng quan tư đồ Trần Nguyên Đán thấy Ứng Long học giỏi nên yêu mến mời làm thầy dạy cô con gái. Hai thầy trò yêu nhau bà Thái có thai ngoài vòng lễ giáo. Ứng Long bỏ trốn. Quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán cho người đi kiếm về để gã cô con gái đang mang thai cho Nguyễn Ứng Long. Lúc đó ông mới 19 tuổi. Khi lấy bà Thái xong, Nguyễn Ứng Long học tiếp thi Thái học sinh và đâu bảng nhãn. Tức là đậu thứ nhì trong kỳ thi tiến sĩ. Bà Thái là người đàn bà thông minh đã được đọc sách thánh hiền từ thuở nhỏ. Cha bà là Trần Nguyên Đán là một thần đồng, đậu tiến sĩ năm 14 tuổi và là dòng dõi Thượng tướng Trần Quang Khải, con thứ của vua Trần Thái Tông. (ĐVSKTT 277)

Mang trong mình truyền thống thông minh xuất chúng Nguyễn Trãi đậu tiến sĩ năm 21 tuổi dưói triều Hồ Hán Thưong. Ông làm đến chức ngự sử đài chính chưởng cho đến khi nhà Minh xâm lược nước ta.

Năm 1407, Nguyễn Phi Khanh cùng với hai em của Nguyễn Trãi bị quân Minh bắt đưa sang Trung Hoa. Nguyễn Trãi theo cha và hai em đến tận địa đầu biên giới đất nước. Khi cha con chia tay nhau ở Ải Nam Quan, Nguyễn Phi Khanh dặn dò Nguyễn Trãi phải về lại Thăng Long để lo việc báo thù cho cha và trả nợ nước. Lúc đó Nguyễn Trãi 27 tuổi. Câu chuyện Nguyễn Trãi Nguyễn Phi Khanh đã đưọc nhà thơ Hoàng Cầm kể lại với kịch thơ Hận Nam Quan, và tác phẩm nầy đã trở thành một di sản sản văn chương yêu nước bất diệt.

Trở về Thăng Long với lời dặn dò của cha trong tâm khảm, Nguyễn Trãi nhìn đất nước tan hoang, lòng người ly tán, không khỏi cảm thấy đau thương. Trương Phụ, Mộc Thạnh và 800 ngàn quân Minh đã vào Thăng Long và đóng binh khắp miền đất nước. Một số lớn nhân sự của triều đình Hồ Quý Ly bị bắt về Kim Lăng. Người hàng giặc. Kẻ đi kháng chiến. Về phương diên gia tộc, Trần Thúc Dao, con trai của Trân Nguyên Đán, và là cậu ruột của Nguyễn Trãi, đã hàng quân Minh và được Trương Phụ cho giữ đất Diễn Châu. Sau nầy Thúc Dao bị Giản Định Đế giết chết. (ĐVSKTT tr. 313)

Từ khi Nguyễn Trãi chia tay với cha ở Ải Nam Quan năm 1407 đến khi ông tìm đến Lê Lợi năm 1416 là 10 năm. Đó là giai đoạn trong cuộc đời của Nguyễn Trãi không được lịch sử nói gì đến nhiều. Đó là 10 năm chứa đầy những ẩn số lịch sử, mà người sau nghĩ rằng Nguyễn Trãi đã nằm yên, không vọng động.

Có lẽ trong giai đoạn đó ông cũng biết công việc khởi nghĩa của Đặng Dung. Có lẽ ông đã nghe bài thơ Cảm Hoài của Đặng Dung lưu truyền trong đám sĩ phu yêu nước. Chắc Nguyễn Trãi cũng biết câu chuyện về khí tiết của Nguyễn Biểu khi ông mắng Trương Phụ và bị nhục hình đến chết. Nếu ông là ngưòi yêu nước, hay ít ra là một sĩ phu có quan tâm đến đất nước, tại sao ông không chia xẻ quan điểm chính trị với Đặng Dung để diệt Minh phù Trần ? Tại sao ông, là con cháu của nhà Trần, không gia nhập phong trào kháng chiến của Giản định đế và Trùng Quang Đế để khôi phục nhà Trần, để giành lại độc lập cho tổ quốc?

Liệu thái độ im lặng của ông có bị người đương thời “chụp mũ” là thiếu tinh thần … “phù Trần” chăng?

Người đương thời nghĩ gì khi Nguyễn Trãi cùng với người anh em con cô con cậu là Trần Nguyên Hãn tìm đến người nông dân chưa có danh trên chốn giang hồ có tên là Lê Lợi ở Lam Sơn năm 1416?

Lê Lợi sinh năm 1385 nhỏ hơn Nguyễn Trãi 5 tuổi. Ông gặp Lê Lợi năm ông 36 tuổi và Lê Lợi 31 tuổi. Phải chăng ông chọn Lê Lợi vì Lê Lợi là hình ảnh của một thế hệ mới. Nhưng nếu Nguyễn Trãi muốn chọn thế hệ mới tại sao ông không tôn Trùng Quang Đế Trần Quí Khoáng làm minh chủ để cùng với Đặng Dung Diệt Minh Phù Trần ?

Về quan điểm thế hệ, Nguyễn Trãi rất gần với Đặng Dung. Cả hai đều quan niệm rằng cuộc chiến mới phải do thế hệ trẻ lãnh đạo. Thế hệ cũ, đại biểu là Giản Định Đế Trần Ngổi, không có đủ năng lực để lãnh đạo cuộc chiến chống nhà Minh. Giản Định Đế vừa lên ngôi trong hoàn cảnh kháng chiến khó khăn đã lo tuyển thê thiếp vào hậu cung. Chiến thắng Bô Cô chưa ráo máu giặc, Giản Định đã nghe lời hoạn quan trong triều đình giết hai danh tướng có công đầu là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Những sự kiện nầy cho thấy Trần Ngỗi là con người thiển cận, nghi kỵ và thiếu tự tin. Hay nói như Lê Lợi, là con ngừơi đam mê tửu sắc. Và do đó, Giản Định Đế không có khả năng tập hợp và nuôi giữ nhân tài để lãnh đạo công cuộc kháng chiến.

Đặng Dung tìm đến ngừơi hậu duệ trẻ tuổi của nhà Trần là Trần Quí Khoáng để tôn lên làm vua. Còn Nguyễn Trãi tìm đến Lê Lợi, một hào trưởng vô danh ở Thanh Hoá, để dâng Bình Ngô Sách và tôn Lê Lợi lên làm minh chủ.

Mười năm từ khi chia tay với cha ở Ải Nam Quan, Nguyễn Trãi đã dành thời giờ suy nghĩ về một chiến lược mới để cứu nước. Bình Ngô Sách là kết tinh của những suy nghĩ của Nguyễn Trãi.

Ngày nay Bình Ngô Sách đã thất lạc. Nhưng qua tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo chúng ta có thể thấy được sách lược mới của cuộc kháng chiên của Lê Lợì.

Cương lĩnh chính yếu của Bình Ngô Sách là đêm đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo, và chiến lược bình Ngô là Mưu Phạt và Tâm Công. Đánh bằng mưu và đánh vào lòng người. Nguyễn Trãi đã phát động cuộc chiến tranh nhân nghĩa. Nguyễn Trãi xây dựng quan điểm đúng đắn về chiến tranh chính nghĩa để đương đầu lại với cuộc chiến tranh giả nhân nghĩa dưới khẩu hiệu diệt Hồ phù Trần bịp bợm của Minh Thành Tổ. Ông dùng chiến tranh tâm lý chính đạo để đối phó chiến tranh tâm lý tà đạo của quân xâm lược.

Ngay ở đề tựa Bình Ngô Sách, ông đã gọi Trung Hoa là giặc Ngô. Tại sao không gọi quân của nhà Minh là giặc Minh mà gọi là giặc Ngô? Đây là nghệ thuật dùng chữ của Nguyễn Trãi để xác định giá trị chính thống của cuộc chiến tranh chống ngoại xâm giành độc lập của Lê Lợi. Lê Lợi dấy binh vì đại nghĩa chứ không phải làm thảo khấu như Chu Nguyên Chương. Nguyễn Trãi dùng chữ Ngô để nhắc lại cho mọi ngưòi biết rằng chính Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương khi còn là giặc cỏ cũng tự phong là Ngô Vương. Xuất xứ của Chu Nguyên Chương là từ Ngô Việt, một bộ phận của Bách Việt đã bị đồng hoá vào Trung Hoa. Ông gọi cuộc chiến nầy là cuộc chiến “bình Ngô” để trả lại Minh Thành Tổ chữ “chinh Di” mà ông dùng để gọi Đại Việt. Ông phản bác nhà Minh ngay ở thuật ngữ “chinh Di” và ông nhấn mạnh rằng thái độ ngạo mạn của người Hán gọi nguời Việt là Di, là mọi rợ, (như khi Minh đế phong Chu Năng làm “Chinh Di” Đại Tưóng Quân), là một điều xúc phạm đến truyền thống văn hoá lâu đời của Đại Việt. Ngay ở tên “Bình Ngô Sách” Nguyễn Trãi đã xác định đưọc chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và kích động được niềm tự hào dân tộc và lòng yêu nước.

“Bình Ngô” cũng xác định cuộc chiến nầy là một cuộc chiến văn hoá, để đối đầu với chiến dịch “chinh Di” của Minh Thành Tổ nhằm đồng hoá Đại Việt. Chính vì thế trong phần mở đầu của Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi khẳng định giá trị truyền thống lâu đời của văn hoá phương nam: “Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu, Sơn hà cương vực đã chia, Phong tục bắc nam cũng khác”.

Đồng thời, ông bổ xung ý niệm nhân nghĩa mông lung của Nho Giáo bằng cách đưa ý niệm nầy vào thực tế chính trị. Theo ông, đối tượng của chính trị là nhân dân, không phải là huyết thống hay dòng họ. Vai trò của nhà cầm quyền phải làm sao cho nhân dân sống an cư lạc nghiệp. Do đó, nhân nghĩa không nằm ở khẩu hiệu, ở tuyên truyền. Nó nằm ở chổ khi thực hiện cái mà ngưòi ta gọi là điều nhân nghĩa đó, có làm cho nhân dân đưọc hạnh phúc ấm no hay không. Ông đưa ra tiêu chuẩn bắt buộc những người lãnh đạo ưa nói điều nhân nghĩa phải chứng minh đưọc khả năng đem lại cơm no áo ấm cho nguời dân cách cụ thể.

Và nữa, nếu phải phát động một cuộc chiến tranh nhân nghĩa thì mục đích của nó là để triệt tiêu bạo quyền, chứ không phải để xây dựng một chế độ cường bạo hơn, độc ác hơn. Khi một chế độ mới độc ác hơn đưọc thiết lập để thay thế chế độ cũ, lập tức, mọi khẩu hiệu nhân nghĩa trong cuộc chiến đều mất giá trị. Và cuộc chiến đó trở nên mất chính nghĩa.

Do đó, nhân danh “phù Trần” hay bất cứ một lý tuởng vĩ đại nào để thay đổi văn hoá dân tộc, để ngăn sông cấm chợ, để bóc bột nhân dân, để các tầng lớp nhân dân căm thù lẫn nhau, làm đời sống nhân dân bất ổn định, để làm cho đời sống nhân dân cùng khổ một điều bất nghĩa, là một tội ác. Ông gói ghém quan điểm nầy trong câu mở đầu của Bình Ngô Đại Cáo:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo.

Suốt hai trăm năm trước đó, Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo được coi như sách lược quốc phòng của Đại Việt và của triều đại nhà Trần. Hai bộ sách nầy là biểu tượng của đỉnh cao về tư duy quốc phòng giúp nhân dân Đại Việt chiến thắng giặc Nguyên Mông ở thế kỷ 13. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 15, sách lược quốc phòng của Trần Hưng Đạo không giúp nhà Trần gìn giữ ngai vàng và bảo vệ đất nước.

Có lẽ Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư và Binh thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo không còn đủ “linh nghiệm” để cứu nước và cứu nhà Trần. Hậu duệ của Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo không còn hùng khí của cha ông để giữ Thăng Long trước những đợt tấn công của Chế Bồng Nga.

Không phải đến đời Hồ Quí Ly nhà Trần mới mất ngôi. Trước Hồ Quí Ly, nhà Trần đã một lần mất ngôi khi Trần Dụ Tông nhường ngôi lại cho Dương Nhật Lễ (1369-1370). Nếu Trần Nghệ Tông không diệt được Dương Nhật Lễ để giành lại ngôi thì nhà Trần đã cáo chung từ năm 1369. Nhưng Trần Nghệ Tông là một vị vua nhu nhược, yếu hèn. Ông lên ngôi để kéo dài giai đoạn hấp hối của nhà Trần. Chính Trần Nghệ Tông, và ngay cả Trần Nguyên Đán, đã mở đường cho Hồ Quí Lý cướp ngôi nhà Trần sau nầy./.

Nguyễn Xuân Phước

Để lại một bình luận