TỔ HUỆ PHÁP VỚI LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CHÙA CÔN SƠN (25/04/2015)

TỔ HUỆ PHÁP VỚI LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CHÙA CÔN SƠN (25/04/2015)

Thánh Tổ Huệ Pháp thiền sư, thế danh là Mai Trí Bản, hiệu là Pháp Nhẫn, còn có tên gọi là cụ Tổ Sâu. Ngài là một vị cao tăng, Phật pháp uyên thâm đồng thời là một thầy pháp tài ba. Ngài trụ trì ở chùa Côn Sơn từ năm 1601 đến 1653. Suốt thời gian 52 năm tu hành ở chùa Côn Sơn, Thánh Tổ Huệ Pháp đã khổ công tu luyện, dốc lòng xây dựng chùa, cứu dân độ thế.                                    

Chùa Côn Sơn (còn gọi là Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự) là di tích đặc biệt quan trọng quốc gia, trong lịch sử phát triển gần một nghìn năm, nhiều quốc sư, Thánh nhân đã về Côn Sơn hoằng dương phật pháp, phát triển giáo giới tiêu biểu là: Đệ nhất Thánh Tổ Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Đệ nhị Thánh Tổ Pháp Loa tôn giả, Đệ tam Thánh Tổ Huyền Quang tôn giả, Quan Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán, Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi… Chùa Côn Sơn Thiên Tư Phúc còn là nơi vua chúa, vương hầu quý tộc ở các triều đại về tham gia tu thiền. Trong đó Thánh Tổ Huệ Pháp thiền sư là một trong những vị quốc sư có nhiều công lao xây dựng, mở rộng chùa, hoằng dương Phật pháp, giúp dân phát triển nền kinh tế nông nghiệp…được văn bia, sử sách còn lưu ở chùa ghi danh.

Thánh Tổ Huệ Pháp thiền sư, thế danh là Mai Trí Bản, hiệu là Pháp Nhẫn, còn có tên gọi là cụ Tổ Sâu. Ngài là một vị cao tăng, Phật pháp uyên thâm đồng thời là một thầy pháp tài ba. Ngài trụ trì ở chùa Côn Sơn từ năm 1601 đến 1653. Suốt thời gian 52 năm tu hành ở chùa Côn Sơn, Thánh Tổ Huệ Pháp đã khổ công tu luyện, dốc lòng xây dựng chùa, cứu dân độ thế. Theo văn bia “Côn Sơn Tư Phúc Tự Bi” niên hiệu Hoằng Định thứ 8 (1607) có ghi: “Trụ trì sơn tăng Mai Trí Bản, tự Huệ Pháp hiệu Pháp Nhẫn vốn sẵn có Phật tính, Phật duyên, xuất gia đầu Phật được hơn 20 năm, gặp được minh sư truyền giáo, chính tông minh tâm kiến tính, học phép Đại Thừa, tu hành khổ hạnh, thụ nhẫn thân pháp ngộ Phật, thụ ký được thần thông, chu du Quốc thổ, được lực từ tại. Có duyên Phật pháp, khuyến hóa chư thiên (khắp mọi nơi) làm Phật sự”. Tại Côn Sơn, Ngài đã mở mang phong cảnh, in kinh, đúc tượng, trùng tu, xây dựng chùa thành một trong những trung tâm phật giáo lớn của đất nước.

http://consonkiepbac.org.vn/Content/Images/UserFiles/image/2015/thang%204/t%E1%BB%95%20s%C3%A2u%201.JPG
Hình ảnh tượng thờ Cụ Tổ Sâu tại chùa Côn Sơn

Năm 1607, Ngài mua điền thổ làm công đức, lại khuyến các quan lại, quý chức, cung tần, thái nữ trong hoàn cung… cùng phát gia tài để “hưng công xây dựng Thiêu hương, Tiền đường, Hậu đường, Tả hữu hành lang, Tam quan, trùng tu Thượng điện, tượng Phật,…lại khắc các kinh, mua bia đá khắc những công đức ấy lưu truyền hậu thế’’(trích văn bia “Côn Sơn Tư Phúc tự bi” (1607), chùa Côn Sơn).

Năm 1614, Thánh Tổ Huệ Pháp lại “Hưng công xây dựng tòa cửu phẩm liên hoa, nhà thiêu hương, tiền đường, hậu đường, tiền tả hữu hành lang, hậu tả hữu hành lang, tam quan, và lại trùng tu cả thượng điện tổng cộng 83 gian. Tô tượng (làm mới) Phật trên cửu phẩm liên hoa tới 385 vị, tạo mới tượng Quan Thế Âm Bồ tát  ngàn tay ngàn mắt, 2 tượng hộ pháp Thiện Ác, 1 tượng Chúa núi, 3 tượng cô hồn, trùng tu tượng phật trên thượng điện 18 pho, sơn son thếp vàng 3 vị Tam thế. Mua mới ruộng đất ao cộng lại là 80 mẫu”  (trích văn bia “Trùng Tu Tư Phúc tự bi” (1613), chùa Côn Sơn)

Như vậy, “trải qua năm tháng lâu ngày (chùa Côn Sơn) mục nát hư hại dần, dây leo gai góc làm giảm cả uy linh, khó làm nơi trì tụng chúc thánh”, đến đầu thế kỷ XVII, tổ Huệ Pháp kịp thời khôi phục, khai sáng quy mô, hưng sùng Phật đạo. Sau đợt trùng tu này, chùa Côn Sơn trở nên hoàn chỉnh, với quy mô 83 gian, kiến trúc nội công ngoại quốc gồm: tam quan, tiền đường, thiêu hương, thượng điện, cửu phẩm liên hoa, hậu đường, tả hữu hành lang; Hệ thống tượng pháp đa dạng, với gần 400 pho tượng, có thể nói Côn Sơn là một trong những ngôi chùa có nhiều tượng phật nhất đương thời. Đáng chú ý trong đợt đại trùng tu ở thế kỷ XVII do Thánh Tổ Huệ Pháp trụ trì là việc tôn tạo tòa Cửu Phẩm Liên Hoa, do đệ tam Thánh Tổ Huyền Quang tôn giả khởi dựng ở thế kỷ XIV; tòa Cửu Phẩm Liên Hoa là một trong những công trình kiến trúc phật giáo đặc sắc của chùa Côn Sơn.

Có thể khảng định, trong gần một nghìn năm xây dựng và phát triển, chùa Côn Sơn đã nhiều lần trùng tu tôn tạo trong đó có những cuộc đại trùng tu vào thế kỷ XVII, XVIII, XX nhưng đợt trùng tu chùa Côn Sơn vào năm 1607, 1614 do Thánh Tổ Huệ Pháp chủ trì cho đến nay vẫn là đợt trùng tu lớn nhất, hoàn chỉnh nhất về kiến trúc và hệ thống thờ tự.

Không những là một vị tổ có nhiều công lao trong việc xây dựng chốn tổ Côn Sơn, Thánh Tổ Huệ Pháp còn được nhân dân địa phương nhắc đến với tư cách là một thầy pháp tài ba. Theo những ghi chép trong văn bia chùa Côn Sơn và tư liệu cho biết, sinh thời Thánh Tổ Huệ Pháp từng sang Trung Quốc tu hành và học được nhiều bùa phép của phái Mật tông, trong đó có bùa phép “trừ hoàng trùng” (trừ sâu bọ) để bảo vệ mùa màng rất hiệu nghiệm.

Xưa, việc sản xuất nông nghiệp của nhân dân thường bị ảnh hưởng rất nhiều vì nạn sâu bọ hoành hành. Trên các cánh đồng và cả trong vườn nhà đều bị nhiều loại sâu bệnh phá hoại, gây thiệt hại lớn về kinh tế, ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của con người, do trình độ khoa học kĩ thuật còn hạn chế nên việc xử lý sâu bọ hại mùa màng gặp rất nhiều khó khăn. Với khả năng và kinh nghiệm đã được học, Thánh Tổ Huệ Pháp đã nghiên cứu ra bùa trừ sâu. Bùa được làm bằng gỗ thị, kích thước 15cm x 30cm trên bùa có vẽ các loại sâu, bùa được giữ tại chùa Côn Sơn. Người dân khi đến xin bùa, làm lễ xin phép Phật thánh được in bùa.               Trước tiên, lấy son mài thành mực quết lên bảng gỗ in bùa, sau dùng giấy dó in vào bùa, cuối cùng đặt lên ban thờ nhờ Thánh Tổ làm phép và mang về nhà. Đến đúng giữa trưa (chính Ngọ) đem bùa đặt ở đầu bờ ruộng (nơi có hướng gió thổi); ở giữa và bốn góc ruộng cắm cờ giấy theo ngũ hành (phía đông – mùa xanh, phía tây – màu trắng, phía nam – màu đỏ, phía bắc – màu đen, ở giữa – màu vàng). Người chủ ruộng đứng trên bờ niệm chú, sâu bọ tự theo nhau hàng đàn lên bờ mà chết. Sâu bọ được trừ, mùa màng bội thu, nhân dân vui mừng và biết ơn Thánh Tổ Huệ Pháp nên gọi Ngài bằng cái tên thân mật là Tổ Sâu. Dân quanh vùng còn truyền miệng bài thơ:

Lặn lội sang nước Tầu,

Học cách diệt trừ sâu.

Khắc hình trên bản gỗ,

Giấy dó in hình sâu.

Phép phù bùa thuật chú,

Chính ngọ đặt bờ (ruộng) cao,

Sâu bò lên mà chết.

Xin bùa trừ sâu đã trở thành phong tục của nhân dân địa phương, mỗi khi mùa màng bị sâu bệnh phá hoại, nhân dân lại đến chùa Côn Sơn lễ tổ xin bùa. Trong kháng chiến chống Pháp chùa Côn Sơn bị giặc Pháp tàn phá, nhân dân chuyển tượng đi cất giấu, bản in bùa được mang về thờ ở miếu làng Chúc Thôn (phường Cộng Hòa), sau đó miếu bị cháy, bản in bùa cũng mất.

Để tưởng nhớ công lao của Thánh Tổ Huệ Pháp đối với chùa Côn Sơn, và diệt trừ sâu bọ bảo vệ mùa màng, nhân dân và tăng ni, phật tử đã tạc tượng thờ Ngài tại Tổ đường chùa Côn Sơn và gọi là ban Tổ Sâu. Tượng Tổ Sâu hiện nay đặt ở ban thờ bên phải toà chính điện của Tổ đường. Tượng được tạc theo phong cách dân gian, đường nét khoáng đạt không hoa mỹ, dáng tượng gần gũi với những người bình dân, nhưng vẫn toát lên thần thái trang nghiêm thanh tịnh của bậc Đại Hoà thượng. Dáng tượng Tổ ngồi toạ thiền, đầu đội khăn trùm qua vai, khuôn mặt quắc thước, nhân từ, mắt nhìn thẳng, miệng rộng. Tổ khoác áo cà sa chảy xuống để hở ngực và một phần bụng, các nếp áo chảy trùm kín lòng đùi tràn xuống bệ. Tay Hoà thượng kết ấn “Tam muội” giữ lòng thanh, tâm tịnh.

Có lẽ sinh thời với tấm lòng nhân ái, sống gần gũi thân thiện với nông dân, lại có công lao làm bùa trừ sâu bọ mang lại mùa màng bội thu, ông được nhân dân tôn kính, yêu mến tạc tượng thờ Tổ theo phong cách tả thực, không theo những quy chuẩn tạc tượng thờ của nhà Phật. Qua hình thức pho tượng, chúng ta có thể hình dung được Tổ Huệ Pháp cũng dân dã bình dị như một “Lão nông tri điền” nhưng đầy trí tuệ và phép thuật để hộ trì Phật pháp cứu giúp nhân dân.

Như vậy, Thánh Tổ Huệ Pháp là một trong những người trùng tu, tôn tạo mở rộng chùa Côn Sơn trở thành đại danh lam, không những vậy, Ngài còn được nhân dân yêu mến bởi đã chế ra bản in bùa để giúp nhân dân diệt trừ sâu bệnh, bảo vệ mùa màng. Với công lao như vây, Tổ Huệ Pháp xứng đáng được vinh danh tại Côn Sơn. Nhưng hiện nay, việc tôn vinh nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp của Tổ Huệ Pháp vẫn chưa được đầy đủ; việc phục dựng những phong tục tập quán, tín ngưỡng ở chùa Côn Sơn gắn với đời sống sản xuất nông nghiệp do Tổ Huệ Pháp thiền sư sáng tạo ra từ thế kỷ XVII chưa được tiến hành. Đây là một trong những nhiệm vụ trước mắt của Ban Quản lý di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc để góp phần tìm hiểu, phát huy giá trị văn hóa phi vật thể tại khu thắng tích Côn Sơn.

Nguyễn Thị Ngọc Xuân

Ban QLDT Côn Sơn – Kiếp Bạc

Để lại một bình luận