CHÙA CÔN SƠN CÒN IN ĐẬM DẤU ẤN CỦA 3 VỊ TỔ TRÚC LÂM

Chùa Côn Sơn ở phường Trần Hưng Đạo (Hải Phòng) gắn liền với tên tuổi của 3 vị tổ là Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.

Chùa Côn Sơn nhìn từ trên cao. ẢNH: THÀNH CHUNG

Khởi dựng

Vào cuối thế kỷ XIII, trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của các giáo phái đương thời, vua Trần Nhân Tông đã sáng lập dòng Phật giáo Trúc Lâm Đại Việt. Ngay từ khi thành lập tông phái, đệ nhất tổ Trần Nhân Tông đã chọn Côn Sơn làm nơi hành đạo, giáo độ tăng đồ.

Dưới thời đệ nhất tổ, cơ sở kiến trúc thờ tự ban đầu ở Côn Sơn còn nhỏ hẹp với tên gọi liêu Kỳ Lân. Trong quá trình đi tìm người kế tiếp dòng phái, chính tại Côn Sơn, Điều Ngự đã thụ giới Tỳ kheo, giới Bồ Tát và ban pháp hiệu cho Pháp Loa.

Tượng thờ Trần Nhân Tông.

Bia “Viên Thông Thanh Mai Tháp Bi” có ghi: Khi trở về liêu Kỳ Lân núi Linh Sơn (Côn Sơn), Điều Ngự xuống tóc, trao áo tu hành cho Sư (Pháp Loa)… Năm Ất Tỵ, niên hiệu Hưng Long thứ 13 (1305), Điều Ngự đích thân truyền giới Thanh văn và Bồ Tát cho Sư tại liêu Kỳ Lân (Côn Sơn).

Theo “Tam Tổ thực lục”, Trần Nhân Tông đã soạn nhiều tác phẩm kinh sách Phật giáo. Trong đó, tác phẩm Thạch thất mị ngữ được Điều Ngự viết lúc rời viện (Kỳ Lân) khi về ở núi.

Như vậy, dưới thời đệ nhất tổ, chùa Côn Sơn với tên gọi liêu Kỳ Lân đã được Trần Nhân Tông chọn làm nơi tu hành, giáo hóa tăng đồ, đặt cơ sở nền móng cho sự phát triển đạo pháp của dòng Phật Giáo Trúc Lâm.

Kế tục

Năm 1308, Pháp Loa được Điều Ngự Trần Nhân Tông trao quyền nối dõi thừa kế tông phái trở thành đệ nhị tổ Trúc Lâm.

Tượng thờ Pháp Loa.

Trong quá trình hành pháp và phát triển đạo pháp, Pháp Loa đã “tạo hơn 1.300 tượng Phật lớn nhỏ, hai bộ tượng sơn mài, hơn 100 tượng bằng đất, dựng hai cảnh chùa lớn và 5 ngôi tháp, lập hơn 200 tăng xá, độ hơn 15.000 tăng, ni, in một bộ đại tạng kinh. Những đệ tử đắc pháp có tới hơn 30 người…

Ngoài việc dựng chùa, đúc tượng, Pháp Loa cũng rất quan tâm đến việc in kinh sách, mở giảng các lớp thuyết pháp về Phật pháp. Năm đầu Khai Hựu (1329), đệ nhị tổ Pháp Loa cho xây dựng cảnh Côn Sơn và Thanh Mai, làm thành đại danh lam thắng cảnh.

Như vậy, chùa Côn Sơn dưới thời Pháp Loa đã được xây dựng, tôn tạo trở thành một trong những trung tâm của Phật giáo Trúc Lâm. Pháp Loa đã phát triển các công trình kiến trúc, hoàn thiện các cơ sở Phật giáo ở Côn Sơn.

Phát triển

Tượng thờ Huyền Quang.

Năm 1330, Huyền Quang kế tiếp tông phái Trúc Lâm trở thành vị đệ tam Tổ Trúc Lâm. Ngài về trụ trì chùa Côn Sơn.

Đệ tam tổ Huyền Quang đã cho xây dựng, mở rộng kiến trúc, phát triển đạo pháp. Trong ngọc phả chùa Côn Sơn cho biết, ngài đã “lập ra Cửu Phẩm liên hoa, giảng các phẩm kinh để truyền cho bậc hậu học”.

Cửu Phẩm liên hoa là một kiến trúc đặc biệt của Phật giáo. Đây là biểu tượng tối cao của thế giới cực lạc. Năm 2012, khi khai quật khảo cổ tại Côn Sơn, các nhà khảo cổ đã phát hiện dấu tích kiến trúc của tòa Cửu Phẩm liên hoa thời Trần do Huyền Quang xây dựng. Dấu tích kiến trúc gồm các trụ móng được xử lý kỹ thuật tương đồng bằng sỏi hạt nhỏ, cát được đầm lèn chặt. Trung tâm hệ thống trụ móng nằm ở chính gồm 5 trụ. Bốn trụ phân bố cân xứng hình thành khung hình vuông với diện tích 16 m2, chính giữa là trụ móng làm tâm phân cách đều bốn trụ xung quanh. Lớp trụ móng chịu lực này được chôn sâu dưới lớp cát nguyên thuỷ màu vàng nhạt, dày. Năm 2014, UBND tỉnh Hải Dương đã cho phục dựng lại tòa Cửu Phẩm liên hoa chùa Côn Sơn trên nền cũ.

Ở Côn Sơn, Huyền Quang còn phát hiện ra Giếng Ngọc. Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng về tâm linh của di tích Côn Sơn. Chuyện kể rằng, vào đêm rằm tháng 7, Huyền Quang mơ thấy một tiên ông râu tóc bạc phơ tự xưng là “Chủ thần long mạch núi Côn Sơn”, chỉ cho viên ngọc sáng lấp lánh dưới lùm cây sau chùa. Huyền Quang định với tay nhặt viên ngọc thì tiếng chuông chùa vang lên. Trời sáng, sư cùng các tăng ni lên núi xem chỗ có viên ngọc đã phát hiện ra mạch nước trong vắt, nước ngọt, mát. Huyền Quang về chùa làm lễ tạ Sơn thần, cho khơi sâu, mở rộng, dùng đá kè thành giếng và đặt tên là Giếng Ngọc. Hơn 700 năm qua, nước Giếng vẫn tràn đầy, được dùng vào các lễ tiết của chùa.

Tại Côn Sơn, Huyền Quang còn cho dựng Am Bạch Vân trên đỉnh núi Côn Sơn, làm nơi tụng kinh, tu thiền thuyết pháp; tôn tạo Ngũ Nhạc linh từ…

Bên cạnh những di sản vật chất, đóng góp của Tam tổ Trúc Lâm với lịch sử chùa Côn Sơn còn gồm hệ thống các giá trị văn hóa phi vật thể. Các giá trị văn hóa ấy là cả một bề dầy lịch sử của Phật giáo gắn liền với tên tuổi của Tam tổ Trúc Lâm.

Đặc biệt, dưới thời Huyền Quang, khi về trụ trì chùa Côn Sơn, ngài đã soạn nhiều kinh sách, khai tràng thuyết pháp, tiếp tăng độ chúng, đào tạo hàng ngàn tăng ni, giảng các phẩm kinh để truyền cho bậc hậu học. Vua Trần khen: “Các sách vở nói về đạo Phật do chính Huyền Quang viết ra thì không nên thêm bớt một chữ nào”. Những khoa giáo, nhà thiền đều phải qua tay ngài cả. Nhiều khoa cúng Phật như: “Thuỷ Lục Chư Khoa”, “Đại khoa cúng Phật, dâng lục cúng Dàng – Mông Sơn thí thực chẩn tế cô hồn, kỳ nguyện quốc thái dân an” được ngài sáng lập tại Côn Sơn.

Tại Côn Sơn, Huyền Quang đã mở các cuộc đại hội chúng tăng, nghe các quốc sư giảng kinh thuyết pháp. Dưới sự trụ trì của đệ tam tổ, chùa Côn Sơn đã đi vào nếp với những sinh hoạt Phật giáo phong phú. Huyền Quang đã xây dựng Côn Sơn thành đại tùng lâm Kỳ Lân Viện, sánh vai cùng Vĩnh Nghiêm, Yên Tử, Quỳnh Lâm…

Nguồn: baohaiphong.vn

Để lại một bình luận