CHÙA CÔN SƠN

Sơ đồ tham quan Khu di tích Quốc gia đặc biệt Côn Sơn

     Côn Sơn, từ lâu đã nổi danh là một trong ba chốn tổ của thiền phái Phật giáo Trúc Lâm Việt Nam:

“Côn Sơn, Yên Tử, Vĩnh Nghiêm

Nếu ai chưa đến thiền tâm chưa thành”

     Côn Sơn xưa thuộc địa phận xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Cộng Hòa, Chí Linh, Hải Dương). Chùa có tên chữ là “Côn Sơn Thiên Tư Phúc Tự” nghĩa là chùa được trời ban cho phúc lành. Chùa nằm dưới chân núi Côn Sơn (tức núi Kỳ Lân). Núi có hình con Kỳ Lân khổng lồ quay đầu trông về Đông Bắc như đang canh giữ cho sự yên lành, u tịch của chốn thiền môn. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí, Hải Dương Phong Vật Chí, Chí Linh huyện chí… đều viết: “Côn Sơn đứng đầu mạch núi Chí Linh. Hai mạch Yên Tử từ phía Đông chạy lại; Huyền Đinh từ Đông Bắc dẫn về gặp nhau ở Côn Sơn xã Chi Ngại. Núi Côn Sơn thế huyền vũ có kim chướng mở ra, núi này hình con Kỳ Lân đứng sừng sững… Núi có Động Thanh Hư, dưới chân núi rộng rãi phẳng lạt như chiếu trải, các núi bên phải, bên trái lớp lớp bao quanh quy phục. Núi Yên Phụ cách xa hơn 100 dặm sừng sững đối lập như ở trước mặt; có hồ nước trong suốt, có 2 nguồn suối ở 2 bên tụ ở phía trước, dòng nước quanh co, cách vài chục dặm chảy ra sông lớn, lên núi ngắm trông rất là sướng mắt. Thật là thú lâm tuyền của một vùng!”

     Chùa Côn Sơn còn có tên nôm là chùa Hun. Tương truyền nơi đây là nơi hun gỗ làm than, là nơi từng diễn ra trận hoả công hun giặc, dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ thứ X.

Toàn cảnh chùa Côn Sơn

     Côn Sơn vốn được coi là nơi tôn quý của đất trời, vùng danh sơn huyền thoại, cảnh sắc đẹp tựa chốn bồng lai… Nơi hội tụ danh nhân của mọi thời đại. Thế kỷ XIII, sau khi dẹp xong giặc Nguyên Mông, củng cố triều chính, Đức vua Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho vua Anh Tông, lên Yên Tử tu hành sáng lập ra Thiền phái Phật giáo Trúc Lâm của quốc gia Đại Việt. Mục đích cao cả của Thiền phái Trúc Lâm là thống nhất Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo) để quy tụ muôn dân, lấy “Thần quyền phục vụ cho Vương quyền” củng cố vương triều và nền độc lập dân tộc. Thiền phái Trúc Lâm ra đời trong lúc nhà Trần hưng thịnh với 3 lần chiến thắng đế quốc Nguyên Mông, giang sơn được mở rộng, kinh tế phồn vinh, chính trị ổn định, lòng dân yên vui… Học thuyết của dòng Thiền Trúc Lâm không để cứu rỗi chúng sinh bị nô dịch lầm than như các tôn giáo khác; mà đây là phương tiện để hoàn thiện một giáo lý “Giác Ngộ” – “Giải Thoát”, bằng việc quy tụ nhân tâm, đoàn kết tôn giáo, người người làm việc thiện, trong khối đoàn kết của cộng đồng dân tộc.

Tam quan chùa Côn Sơn

     Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã xây dựng một số trung tâm lớn để hoằng dương Phật Pháp như: chùa Quỳnh Lâm, chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Phổ Minh… Chốn tổ Côn Sơn, còn gọi là Thiền viện Kỳ Lân, hay Liêu Kỳ Lân, được mở rộng với quy mô lớn, bình đồ kiến trúc nội công ngoại quốc gồm nhiều hạng mục công trình từ Hồ Bán Nguyệt lên đỉnh núi Côn Sơn, núi Ngũ Nhạc như: Tam quan, lầu chuông gác trống, tiền hành lang, hậu hành lang, Phật điện, Cửu phẩm liên hoa, tổ đường, hậu đường, lầu thờ Đức Phật Quán Thế Âm bồ tát, vườn tháp, giếng Ngọc, Am Bạch Vân và 5 miếu thờ trên Ngũ Nhạc linh từ… cùng hàng trăm pho tượng Phật. Tại Côn Sơn, Tổ Huyền Quang đã soạn nhiều kinh sách, đào tạo hàng ngàn tăng ni, trước tác ra nhiều kinh điển; soạn nhiều bộ sách về Phật học như: Chư phẩm kinh, Công văn tập và Thích khoa giáo… Nổi tiếng hơn cả là “Đại khoa cúng Phật, dâng lục cúng Dàng – Mông Sơn thí thực chẩn tế cô hồn, kỳ nguyện quốc thái dân an”. Đây là di sản văn hoá có giá trị đặc biệt của đất nước.

     Ngày 23 tháng Giêng năm 1334, Thiền sư Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn. Thái Thượng Hoàng Trần Minh Tông đã ban tước hiệu và xuất ngân quỹ để xây Đăng Minh Bảo Tháp cho sư Tổ ở sau chùa. Ngày giỗ Tổ Huyền Quang đã trở thành nguồn gốc lễ hội truyền thống mùa xuân Côn Sơn.

Nghi thức nhiễu tháp tổ – Lễ giỗ Đệ Tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang tôn giả

Cuối thế kỷ XIV, Tư Đồ Trần Nguyên Đán về dựng nhà ở núi Côn Sơn làm nơi “nghỉ ngơi, chơi ngắm”. Ông cùng phu nhân đưa cháu ngoại Nguyễn Trãi về ở cùng. Năm 1372, Đức vua Trần Duệ Tông về Côn Sơn thăm Quan Tư Đồ và ngự bút đề tặng 3 chữ: “Thanh Hư Động” (thanh trong, thoát tục) khắc lên bia đá, Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông làm bài minh: “Thanh Hư Động Bi Minh” ca ngợi khí tiết thanh cao của Trần Nguyên Đán, khắc ở sau bia. Bia “Thanh Hư Động” hiện lưu giữ ở sân chùa Côn Sơn. Tương truyền, tại Côn Sơn, rừng thông, bãi rễ do Trần Nguyên Đán và phu nhân trồng nay là những thắng cảnh đặc sắc của khu di tích.

Bảo vật quốc gia – Bia Thanh Hư Động

     Thế kỷ XV, Nguyễn Trãi – bậc khai quốc công thần của triều Lê, sau khi giúp Lê Lợi dẹp trừ giặc Minh mang lại thái bình cho đất nước; là quan đầu triều, nhưng Ông luôn dành tình cảm cho Côn Sơn. Côn Sơn với Ông là cố hương, là điểm khởi nguyên cho sự nghiệp nhân nghĩa sáng mãi muôn đời. Vào khoảng năm 1435 (?), Nguyễn Trãi giữ chức Vinh Lộc Đại Phu, Nhập Nội Hành Khiển, Gián Nghị Đại Phu… nhưng Ông đã về đây, dựng ngôi nhà tranh ở ven suối Côn Sơn để ở. Nguyễn Trãi đã sửa sang Động Thanh Hư, mở rộng chùa Côn Sơn và sáng tác “Côn Sơn Ca”:

“Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai

Côn Sơn có đá rêu phơi

Ta ngồi trên đá như ngồi nệm êm

Trong rừng thông mọc như nêm

Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm

Trong rừng có bóng trúc râm

 Dưới màu xanh ngát ta ngâm thơ nhàn”…

Suối Côn Sơn

     Côn Sơn là nơi san sẻ những nỗi vui buồn, căm giận và cũng là nơi ấp ủ lý tưởng cứu nước cứu dân, làm cháy lên ngọn lửa nhiệt huyết trong trái tim nhân nghĩa Ức Trai. Chính ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã nung nấu dốc lòng soạn “Bình Ngô Sách” để năm 1417, Ông dâng Lê Lợi làm cẩm nang cho cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Sau “Binh Thư Yếu Lược” của Hưng Đạo Đại Vương (thế kỷ XIV), tác phẩm “Bình Ngô Sách” của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) là cuốn binh thư thứ 2 được ra đời ở đất Chí Linh.

     Chùa Côn Sơn được khởi dựng cuối thế kỷ XIII, mở rộng, hoàn chỉnh ở thế kỷ XIV; được trùng tu tôn tạo ở các thế kỷ XV, XVI, XVII, XVIII… Theo văn bia, chùa xưa là quần thể kiến trúc nguy nga lộng lẫy gồm 83 gian, có cửu phẩm liên hoa với 385 pho tượng; các công trình mái lợp ngói thanh lưu ly, hoàng lưu ly… trông xa long lanh như ngọc biếc. Trải qua thời gian, những kiến trúc xưa không còn. Ngày nay, ngoài 2 chân đá tảng chạm cánh sen và một số ngói mũi hài có từ thời Trần thì các công trình đều được trùng tu tôn tạo từ thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XX và những năm gần đây.

      Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở chùa Côn Sơn đã tìm thấy nhiều dấu tích kiến trúc và các di vật có niên đại từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX như: gạch hoa thị, ngói mũi hài, ngói lá đề, ngói tráng men hoa nâu và nhiều đồ gốm tráng men cao cấp của các thời kỳ lịch sử Trần, Lê, Nguyễn…

Tòa Cửu Phẩm Liên Hoa chùa Côn Sơn

     Phả hệ các vị Quốc sư trụ trì ở chùa Côn Sơn từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII bước đầu thống kê chưa đầy đủ như sau: Ba vị tổ Thiền phái Trúc Lâm triều Trần là: Đệ Nhất Tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông; Đệ Nhị Tổ Pháp Loa Tôn Giả; Đệ Tam Tổ Huyền Quang Tam Giáo Trạng Nguyên Tôn Giả. Năm 1385 đến 1390, Quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán về tu bổ chùa. Từ năm 1435 đến 1442, Nguyễn Trãi về ở Côn Sơn mở rộng chùa, cùng các nhà sư soạn kinh thuyết pháp. Từ năm 1602 đến 1653, Tổ sư Mai Trí Bản hiệu là Huệ Pháp, tự là Pháp Nhẫn (còn gọi là Tổ Sâu) đại trùng tu chùa, có phép trừ sâu bọ phá hại mùa màng. Từ năm 1653 đến 1740, các đại hoà thượng như: Đỗ Công Triều; hoà thượng Huệ Viên, cung tần Nguyễn Thị Ngọc, Thiền sư Hải Ấn, Thiền sư Nguyễn Đăng Trạc… đã tu bổ chùa và Đăng Minh Bảo tháp với quy mô lớn. Như vậy suốt từ thế kỷ XIII đến nay, chùa Côn Sơn quy tụ các vua chúa, vương hầu quý tộc, các danh nhân văn hoá ở các triều đại và các vị quốc sư về trụ trì, hoằng dương Phật pháp. Hiếm ngôi chùa nào có bề dày lịch sử mang đậm dấu ấn Phật giáo Trúc Lâm như ở Côn Sơn Thiên Tư Phúc Tự.

     Ngày 15/02/1965, giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của đất nước ác liệt nhất, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã về thăm Côn Sơn, như tìm về sức mạnh từ cội nguồn của dân tộc…Người đã căn dặn cán bộ, nhân dân phải bảo vệ tốt di tích lịch sử, trồng nhiều cây để Côn Sơn trở thành nơi tùng lâm đẹp đẽ. Hình ảnh Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc bia “Côn Sơn Tư Phúc Tự Bi” là biểu tượng thiêng liêng của văn hóa xứ Đông.

                          Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bia “Côn Sơn Tư Phúc Tự bi” ngày 15/2/1965

     Hàng năm, Côn Sơn có 2 kỳ lễ hội, lễ hội mùa xuân diễn ra từ ngày 15 đến 23 tháng Giêng âm lịch, tưởng niệm ngày viên tịch của Huyền Quang Tôn giả; Lễ hội mùa thu diễn ra từ ngày 10 – 20 tháng 8 âm lịch, tưởng niệm ngày mất của Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi. Lễ hội truyền thống Côn Sơn bảo lưu, trình diễn nhiều hình thái văn hóa phi vật thể đặc sắc như: Lễ rước nước, lễ tưởng niệm, lễ tế trời đất trên Ngũ Nhạc linh từ, lễ Mông sơn thí thực, hội thi bánh chưng, bánh giầy, pháo đất, đấu vật, cờ tướng… Năm 2012, lễ hội Côn Sơn được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.

                                                 Lễ rước nước chùa Côn Sơn

                                                                               Lễ rước nước chùa Côn Sơn

Lễ tế trời đất trên ngũ nhạc linh từ

Lễ hội truyền thống mùa Xuân Côn Sơn – Kiếp Bạc

     Ngoài 2 kỳ lễ hội truyền thống, Côn Sơn còn có các sự lệ, lễ tiết được bảo lưu và tổ chức thường niên như: Lễ khai xuân phát lộc (đêm giao thừa); Lễ giỗ Đệ nhị tổ Pháp Loa tôn giả (ngày 03 tháng 3 âm lịch); Lễ Phật Đản (ngày 15 tháng 4 âm lịch); Lễ Vu Lan (ngày 15 tháng 7 âm lịch); Lễ giỗ Đệ nhất tổ Điều Ngự giác hoàng Trần Nhân Tông (ngày mồng 01 tháng 11 âm lịch); Lễ giỗ Nguyễn Phi Khanh – thân phụ Nguyễn Trãi (ngày 5 tháng 11 âm lịch); Lễ giỗ Quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán (ngày 14 tháng 11 âm lịch)…, đã tạo nên phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống của cư dân và thiện nam tín nữ trong vùng.

     Với những giá trị đặc sắc về lịch sử, văn hóa… khu di tích Côn Sơn hiện nay được lựa chọn đưa vào hồ sơ đề cử Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc đang trình UNESCO công nhận là Di sản thế giới, khẳng định giá trị toàn cầu của khu di tích Quốc gia đặc biệt Côn Sơn.

Ban Quản lý di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc

Để lại một bình luận